Thursday, May 25, 2017

LÀM SAO KHI CHẾT CÓ NỤ CƯỜI ? (BÀI 6)

11. Sự Liên Hệ giữa Khoa Học và Thiền.
          Khoa học đã chứng minh là tất cả vũ trụ chỉ là những nguyên tử (atoms), trong đó gồm có electron, proton, neutron (Điên âm, điện dương, điện trung hoà). Vật chất và năng lượng đươc chuyển hoá trong công thức E=mc2.  Có nghĩa là chúng ta không ai ra ngoại lệ, chỉ là năng lượng dưới dạng atom. Thấy bề ngoài thì đẹp gái, đẹp trai, nhưng chỉ là vibration (sự rung động của vật chất). Năng lượng này luôn rung động, dynamically changing. và gây ra rung động vibration. Cơ thể chúng ta cũng thế. Chỉ vì mắt chúng ta bị giới hạn bởi khả năng nhận biết vì tần sóng gamma.
          Đức Phật có dạy: Mỗi sát na chúng ta có 80,000 tâm sinh diệt, như một vị thiên sứ búng ngón tay. Mỗi giây có 1 triệu sát na (Kapsna). Như vậy mỗi ngày chúng ta thu nhận cả tỷ tỷ thông tin được lưu trữ trong ký ức (tâm). Thế mà chúng ta không hề biết. Tại sao thế ?
          Người sống trong hoàn cảnh nào bị 6 trần ảnh hưởng trên 6 căn, sinh ra thói quen. Những cái thích, cái ghét với đối tượng đều ghi vào tiềm thức. Nhất là tham ái dục. Mỗi sát na đều khởi tâm thì giống như thêm củi vào lò lửa. Đương nhiên là lửa cháy mãi. Khi chúng ta gần chết thì cái tâm tử mạnh nhất này trồi lên làm tâm sinh cho kiếp kế tục...
          Người ưa nói chỉ trích người khác trở thành thói quen làm hoen ố tư cách cao thượng của chính mình. Lâu ngày như miếng giẻ bị nhuốm dơ nhiều rất khó giặt sach. Nhất là tham ái dục. Thói quen này khó bỏ. Không xúc chạm thì sanh ra Tưởng. Càng tạo ra nhiều vibrations........ và ký ức càng chứa nhiều loại này thì sẽ đưa đến hành loạn (loạn dâm, ức dâm, hiếp dâm). Khi chết thì người ưa nói sai có thể bị cái tâm tử mạnh nhất ấy mà biến thành con chó kiếp sau (sủa nhiều). Người tham ái dục nhiều thì kiếp sau có thể thành con dê. Tất cả đều do sự huân tập kiếp này mà ra. Nhân quả rõ ràng. Bạn có tin Phật, Chúa, Allah hay không thì luật nhân quả là luật của vũ trụ. Có Nhân thì có Quả. Sớm muộn chỉ là thời gian. Cây chuối 6 tháng , cây sầu riêng 3 năm..
          Nào bây giờ các bạn đã hiểu phần nào về sự hiện diện của bạn trên trái đất này chưa ? Tại sao bạn là cái bạn đang là và không giống một ai trên hành tinh này. Hai đứa con song sinh cũng không giống nhau.
          Chúng ta sẽ cùng nhau chuyển hoá những cái đã không tốt đó cho tốt hơn bằng Thiền Quán nhé.

12. Quán Cảm Thọ là quán như thế nào ?
          Khởi đầu, chúng ta hãy thử tìm hiểu về ngũ uẩn (five aggregates). Chúng thực ra chỉ có hai cái. Nhóm một là Sắc Uẩn (rupakkhandha) và nhóm hai gồm 4 cái kia là Danh Uẩn (hay còn gọi là Tâm). Vì mục đích dễ hiểu cho pháp hành nên chúng tôi chỉ nói vắn tắt theo ngôn từ bình thường. Thông thường theo truyền thống Phật học thì Sannakkhandha (aggregate of perception) như là âm thanh, hình thái, mùi, vị, xúc chạm và ý tưởng - Tưởng Uẩn.  Sankharakkhandha (aggregate of mental formation) như là hành ý, tác ý, Hành Uẩn. Vinnaakkhandara (aggregates of consciousness) như là THỨC uẩn, ghi nhận. Vedanakkhandara (aggregate of sensations) như là Thọ Uẩn.
          THỌ uẩn có 3 loại. Chỉ có một trong ba loại này hiện diện vào một lúc thời gian mà thôi. Khi một loại có mặt thì hai loại kia không có mặt. Loại thứ nhất là Sukha Vedana (Pleasant Feelings) thọ lạc. Loại thứ hai là Dukkha Vedana (Unpleasant Feelings) thọ khổ. Loại thứ ba là Upekkha vedana (indifferent feelings, neither pleasant, nor unpleasant) trung tính, không khổ không lạc.
          Khi Bạn chú tâm vào đề mục như là phồng xẹp hay hơi thở ra vào ngay đầu chót mũi bằng 3 yếu tố: saddha (tự tin không thối chuyển confidence), viriya (nỗ lực efort) và sati (luôn chú tâm attentiveness) thì sau một khoảng thời gian như vậy Bạn sẽ thấy sự xuất hiện của Thọ. Cái Thọ này sinh ra do sự tương tác của Tứ Đại (four Dhatus) khi một trong bốn cái này trở thành yếu tố tác độ mạnh nhất hơn cả 3 cái kia. Pathavi Dhatu, Apo Dhatu, Tejo Dhatu, và Vayo Dhatu. Cái Đại nào xuất hiện lúc đầu khi Thiền Tuệ sẽ là cái dẫn Bạn đến gặp cái chết.
          Khi Thọ xuất hiện, dù Bạn đang giữ chú tâm vào hơi thở ra vào, cái Tâm của Bạn sẽ nhảy nhót từ cái nhận biết của hơi thở nơi chót mũi sang cái đề mục khác là sự xuất hiện của Cảm Thọ. Đó cũng là kinh nghiệm thực hành của chúng tôi. Ban đầu, Bạn nhận biết cái Cảm Thọ rằng Bạn đang có cái đau vì ngồi lâu. Nhưng ngay sau đó, Bạn lại nhớ đến lời Phật dạy rằng cái Thọ đó chẳng qua chỉ là cái Thức (mental phenomena). Và cứ như thế thì Bạn sẽ nhận thức được cái cảm thọ chỉ là tiến trình của Tâm (Thức). Thay vì quán xét cái đau, nay ta quán xét cái tiến trình của Thọ. Tiến Trình này sanh ra rồi diệt (cittanupassanà). Citta có nghĩa là Tâm, thức, và anupassanà có nghĩa là liên tục quán chiếu. Sáu cái ngoại Tâm này có thể sanh diệt không theo một trật tự nào cả. Bạn phải quán xét chúng cẩn thận trong từng sát na. Kết cục thì tiến trình này chẳng qua chỉ là tiến trình Sanh Diệt của Thọ. Tiến trình 'đau cứng" vì (Pathavi Dhatu) cái tứ đại chấm dứt, và tiến trình về cảm thọ của Danh (Tâm) cũng dứt theo.
          Khi tiến trình cảm thọ chấm dứt, thì nó tự động chuyển sang quán xét của Tâm[1] (citta satipatthana) bất đồng ý với hiện cảnh hay cảm thọ về hiện cảnh. Nhưng Tâm sẽ theo đó mà rõ ràng trong suốt (tranquility). Bạn sẽ tác ý mong cầu tìm một nơi nào đó không có đau đớn. Vô ích. Bạn phải đối diện với tiến độ của cái cảm thọ đau đó. Nhưng bạn sẽ đối diện cái tiến trình của Sắc song song với sự đau khổ này. Do nhận biết cái Tâm và sự Sanh Diệt của nó rõ ràng, Bạn đến gần cảnh giới Niết Bàn. Lúc đó, Tâm của Bạn sẽ trong suốt, thanh tịnh và bình an. Đức Phật dạy khi hành giả biết được cái Tâm thì họ có thể vào Niết Bàn.
          Bạn thể nghiệm được cảm thọ trong khi hành trì Thiền Tuệ. Tuệ phát sinh. Tâm tịch tĩnh. Lý do chính là Bạn đã thể nhập và hiểu rõ bản chất sinh diệt của Danh (nama) và Sắc (rupa) . Có thể nói lúc đó Bạn đã bước vào vòng bán kết của Tư Đà Hoàn Sotapanna. Bạn sẽ nếm cái hương vị an vui (thọ lạc sukkha) bằng cách trừ bỏ cái Khổ Dukkha. Không thể lẫn lộn. Một hành giả không thể thực sự thoát ra khỏi cái tứ đại nếu người đó không biết rõ bản chất và tiến trình của Khổ và Lạc.
          Có 6 loại đối tượng tác động sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp (6 sensations) thông qua XÚC để gây ra cảm thọ. Chúng phải thông qua 5 cơ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) của thân và điều kiện thích hợp của đối tượng (appropriate sense organs and the object influences). Thí dụ: Mắt, cảm xúc của mắt chỉ có khi có đối tượng thấy được trong tầm mắt và điều kiện môi trường nhìn (eyes and eye-matters). Nói nôm na là đối tượng trong tầm ngắm và ngắm thấy được. Vedanakkhandara Thọ Uẩn phải dựa vào 4 cái để nó có thể có hiệu ứng ghi nhận và quan sát. Sự ghi nhận này rất cực nhanh và cực ngắn. Ngắn giống như là (i) nhận biết sự sanh - xuất hiện và (ii) nhận biết sự diệt - biến mất. Nhưng cả 2 chúng nó đều là Hiệu Ứng ghi nhận SAU HIỆN TƯỢNG GHI NHẬN (after-the-facts awareness) của Tâm.  Do đó rất khó mà có thể ghi nhận (observe) hiện tượng sanh ra ban đầu (initial arising) bởi chúng không bao giờ xuất hiện cùng một lúc. Chúng ta chỉ có khả năng ghi nhận hiện tượng bằng suy luận diễn giải, bằng sự biến mất của chúng sau khi chúng đã biến mất.
          Thí dụ: Vào ngày nóng nực, bạn đặt cái quạt xoay vòng từ trái sang phải và ngược lại. Bạn có thể cảm nhận được làn gió nhẹ mơn man trên da mặt của bạn, phải thế không ? Và cảm giác đó làm bạn dễ chịu (Sukha vedana- pleasant feelings). Trước đó, bạn đã khó chịu vì cảm ứng nóng và bạn đã không hài lòng với nó (dukkha vedana unpleasant feelings). Giữa khoảng cách của 2 loại cảm thọ này bạn có thể có loại cảm thọ thứ 3, đó là cảm thọ trung hoà, không khổ không lạc (uppekha vedana). Luôn luôn có MỘT loại cảm thọ hiện diện tại một lúc thời gian, nhưng không bao giờ có cả 3. Đó chính là nguyên nhân mà chúng ta tạm gọi là Sinh và Diệt của các pháp hiện hữu trong tâm trong tiến trình ghi nhận và chú tâm về đối tượng của chúng ta. Tiến trình ghi nhận này chỉ có thể xảy ra như là một sự ghi nhận một sự kiện đã xảy ra sau khi môt cái XÚC đã xảy ra  (an after the effect awareness of initial contact). Chỉ có những bậc Thánh mới có khả năng ghi nhận sự kiện ngay khi nó xảy ra mà thôi.
          Không thể có hai sự ghi nhận của một sự kiện cùng một điểm thời gian, cho nên không có cái gì ghi nhận về cái SINH đơn thuần (single arising) hay DIỆT đơn thuần (single passing).
          Còn 2 cái Thọ nữa bảo vệ sự sinh tồn của Bạn, đó là Tâm Thở Ra và Tâm Thở Vào (exhalation passàso) và (inhalation assàso). Hai cái này hoạt động ngay cả khi Bạn ngủ. Tổng cộng chúng ta có 13 cái đối tượng ngay trongn thân mà chúng ta cần quán xét. Bạn không cần phải thắc mắc đối tượng nào để quán sát vì có tới 13 cái đối tượng  đang luôn luôn chờ bạn. Bạn chỉ cần quán sát một trong 13 cái này mà thôi. Trong kinh Mahà satipatthàna, đức Phật dạy về quán sát tâm (citta) và sự sanh diệt (anupassana);  cittapassanà là sự quán sát về sự Sinh Diệt của tâm. Nó luôn luôn sinh diệt Ekodhammo; Eko có nghĩa là sinh ra và Dhammo có nghĩa là quán sát.     
          Thiền quán về Cảm Thọ thực ra là sự ghi nhận kỹ và đúng những cái cảm thọ đã biến mất (noting each of such after-the-effect perishing /disappearing). Đây là cách dễ nhất mà các hành giả đã thành công trong thực nghiệm. Khi Bạn hành trì liên tục không để một khoảng trống nào thì tà kiến (sakkaàyaditthi) sẽ biến mất và chánh kiến (sammàditthi) sẽ phát sinh.
          Cuối cùng thì là gì đây các bạn ? Khi xuất hiện tedum của chuỗi thực hành thì hành giả sẽ không còn ghi nhận, cảm nhận cái sinh diệt ấy nữa. Đó là cái chứng nghiệm cuối cùng (real and absolute tedum and final awareness).  Không còn một cái gì để theo dõi quán chiếu nữa. Ngài Phật Âm Buddhagosha đã gọi cái này là : ”Vẫn còn cái hình ảnh dấu vết hay cái bóng (image) của sự đau khổ xuất hiện, nhưng những người (chủ thể) đau khổ đã chấm dứt. Ý tuy có hành, nhưng người hành giả thì không còn tồn tại là chủ thể nữa”. Đức Phật cũng dạy cho Ngài Bahiya như thế trong kinh pháp cú. “Trong cái sự thấy chỉ có cái thấy, không có ông trong đó, không có ông đời này, không có ông đời sau”. Cái sự thấy ấy chính là cái nhận biết đến cùng tận của sự nhận biết về sanh diệt và không còn gì để nhận biết nữa. Người hành giả chứng nhận được các khổ đau đã diệt tận vì ngay cả Sinh Diệt cũng chấm dứt. Các Pháp trở lại tự nhiên Như Thị….
          Ông Bahiya tốn 15 phút chứng A La Hán. Ngài Anguilimalla giết 999 người mà quán như thế rồi cũng thành A La Hán. Và còn không biết bao nhiêu câu chuyện như thế xảy ra trong kinh điển cũng như trong hiện thực trong 50 năm qua trên trái đất nhỏ bé này.
          Kinh Tứ Niệm Xứ cũng ghi rõ lời Phật dạy: Chỉ cần 15 ngày miên mật quán chiếu như thế thì sẽ chứng vào dòng Thánh. Khổ đau có cơ hội chấm dứt.
          Những hành giả đang quán chiếu trên Cảm Thọ sẽ được Vedana mời gọi đến nhận diện và quán xét (come and see) chúng đang Diệt. Đó chính là nghĩa ngữ của ehipassika. Mở ra cho tất cả mọi hành giả. Hãy đến và xem xét kỹ. Hãy tỉnh giác nhận biết và hành xử phản ứng bằng trí tuệ. Không nên đặt Tham Ái (Tanha) hay Sân hận (Dosa) vào trong tiến trình phản ứng. Chu trình Nhân duyên (paticcasamuppada) sẽ hoàn thiện chu trình của nó ad infinitum . Chu trình này là cuộc sinh tử luân hồi không dứt của chính bạn – nó là tiến trính sinh diệt của chính bạn.   Nên nhớ kỹ rằng, cảm thọ vedana chỉ có thể xuất hiện (sinh) trên cái thân của bạn. Nó là Khách. Nó đến rồi đi, sanh rồi diệt. Thiền Tuệ để phát triển cái Tuệ của chính bạn để giúp bạn nhận ra cái sự diệt của các cảm thọ đó mà thôi. Khi Sân Hận được dùng hay sinh ra để chế ngự, hay đối đãi với cái cảm thọ khổ sở ban đầu thì chính cái sự Sanh Ra của sân hận đó sẽ tạo ra một chu trình mới của Sân Hận để mời bạn tiếp tục cuộc vui không nghỉ với chúng nó.
          Trong cái chu trình không đầu mối (vô thuỷ vô chung) này, không có cái Ngã nào xuất hiện trong ngũ uẩn cả. Chỉ có Danh và Sắc. Thực chất chỉ là Năng Lượng và sự rung động (energy and vibration) dưới hai dạng khác nhau và do tập quán quy ước nên chúng ta gọi chúng với các tên gọi khác nhau.
          Thọ (Vedana) không phải là một chuỗi vô tận liên tiếp của sinh diệt của cảm thọ. Chúng chỉ là một chuỗi gián đoạn (static) của nhiều hình ảnh sinh diệt của các cảm thọ. Khi bạn nhiệt tâm, tỉnh giác tham gia trong sự nhận biết, quán xét các sự sinh diệt của cảm thọ thì Tuệ phát sinh. Và hành giả thể nhập được suối dòng thác của sinh hoá (stream of disappearance phenomena)[2]  hay gọi là Bộc Lưu.

13. Tuệ Giác Diệt Cảm Thọ
          Khi đối diện sự chết nếu có Tuệ thì Bạn còn cảm thấy đau đớn, mất mát, khổ não không? Chắc chắn là Không. Chính cái Tuệ phát sinh do sự quán chiếu sanh diệt của cảm thọ giúp bạn thẩm thấu và chứng nghiệm sự sinh diệt. Cái Tuệ này dẫn đến sự nhàm chán thế giới hữu vi, diệt trừ tham ái, và sụp đổ cái Ngã, tiến đến Tuệ Giác hoàn hảo, và cuối cùng là Niết Bàn.
          Ngay khi Bạn nhận biết rằng sự an lạc chỉ xuất hiện khi không còn cảm thọ nữa, và chính sự cảm thọ đó  là nguồn gốc sự thực của khổ đau (dukkha), khi ấy, cảm thọ (vedana) chấm dứt hoàn toàn. Sự chấm dứt cảm thọ này là bước đầu nhận biết về Niết Bàn.
          Khi Cảm Thọ chấm dứt thì ngũ uẩn cũng biến mất. Ngay đó Niết Bàn xuất hiện.  Thế thì vị hành giả có biết là chính họ đã hoàn tất việc cần phải làm chưa ? Với sự thể nhập của Tuệ giác (magga phala) hay là con đường dẫn thẳng đến Niết Bàn và đối diện sự chết trong sự thanh tịnh không bị ô nhiễm của thân và ý, liệu họ có mỉm cười vui với những thành tựu đó không ? Khi bạn đã chiến thắng cảm thọ (vedana), bạn sẽ có nụ cười trên môi khi bạn phải đối đầu với cái chết.
          Bạn cần lưu ý những yếu tố quan trọng trong sự thật về Tuệ Tri (magga sacca). Bốn yếu tố đó là:
1. Niyyanatho: có sức mạnh dẫn đến sự thành tựu hay chấm dứt
2. Hettutho : có thành tố của những cái nhân trong sự thành tựu A La Hán
3. Dassanatho: có những yếu tố của sự thành tựu Tứ Thánh Đế
4. Adhipateyyattho: có sức mạnh chiến thắng 3 loại tham ái và tự mình thành tựu đạo nghiệp
          Chỉ có Bát Thánh Đạo có bốn thành tố trên.
          Nên nhớ, có 16 thành tố của Tứ Thánh Đế dẫn đến quả vị A La Hán.  Giai đoạn 1 là sự thành tựu Tư Đà Hoàn Sotapanna. Đây là giai đoạn đầu cần thiết để thoát ra vòng sinh tử luân hồi. Chỉ có thể thành tựu khi Bạn đã huỷ diệt hoàn toàn 3 tà kiến:
1. Khái niệm về Ngã (sasata dithi)
2. Khái niệm về Thường (linh hồn) (sassata dithi).
3. Khái niệm về tái sinh theo sau một cái linh hồn (Uccheda dithi). (Annihilationist  theory).
          Phá huỷ toàn bộ tà kiến này chỉ có thể xảy ra bằng hành trì pháp quán Nhân Duyên Sinh Diệt (Paticcasamuppada). Hãy chú tâm vào một điểm theo dõi hơi thở vào, ra, chậm rãi, thong dong. Không để một cái tư tưởng về Ngã xen vào tiến trình thở ra , thở vào,  nhé các bạn.
          Trong lúc chúng ta đang quán chiếu hơi thở và sự sinh diệt của nó, hãy cùng nhau niệm Phật như sau nhé:
"Sự đau khổ hiện diện nơi đây, nhưng chẳng có ai đau khổ cả.
Sự tác ý có đây, nhưng chẳng có người nào tác ý nơi đây".
"Mere suffering exists, but no suffer is found.
The deeds are, but no doer is found"
          Trạng thái này sẽ đạt đến nếu bạn chú tâm vào một đề mục (one pointedness) và không còn một cái tâm nào có thể chen vào tiến trình này được nữa. Ngay lúc hành giả tự nhiên và thong dong quán chiếu sau khi đã huỷ diệt cái khái niệm Ngã (I-ness) đã hoành hành thống trị nơi thân và tâm của chúng ta, thì hành giả bắt đầu nhận ra trạng thái sinh diệt tự nhiên của pháp hay của bất cứ hành uẩn nào.



[1] . Tâm (citta) là manàyatana gồm chung trong  Ajjhattikàyanatana trong thân của Bạn. Nó là Nội Tâm nếu nó duyên theo phần nội của thân (hadayavatthu) và nó là Ngoại Tâm nếu nó duyên theo phần ngoại của thân (pancavatthu). Các Tâm không sanh ra cùng một lúc mà hết cái này đến cái kia. Chỉ có một cái sinh ra vào một lúc mà thôi.
[2] Lưu ý : (Paticca = on account of Samuppada = conditioning). Cái này sinh thì cái kia sinh. Cái này diệt thì cái kia diệt.

No comments:

Post a Comment