Monday, December 12, 2011

KHOÁ TU HỌC PHẬT PHÁP CUỐI NĂM

KHOÁ TU HỌC PHẬT PHÁP CUỐI NĂM
Thời gian: Ngày 31/12/2011 đến ngày 6/1/2012
Địa điểm: Richmond surburb, NSW cách Sydney 60kms gần Blue mountain.
Phong cảnh an lành yên tĩnh, gần sông núi,
Ghi danh: tại Chùa Thiên Phước 29 Avenel Street, Canley Vale NSW 2165 (Phone: 02-87045589 & 0416285782) và chùa Liên Trì, Melbourne (Phone: 03-93526351).
Ban Giảng Huấn và hướng dẫn:  Ngài Shi Yan Jing (Shaolin temple China), Tỳ kheo Thích Minh Tâm, Tỳ kheo Thích Hạnh Quả (chùa Thiên Phước), và  Tỳ kheo Thich Đạt Ma Hạnh Nguyện.
Phụ trách: Tỳ kheo Thích Hạnh Quả, Tỳ kheo Thích Minh Tâm.
Đơn vị tổ chức: Hwa Yen Buddhist Institute, North Richmond, NSW
Hoàn toàn miễn phí cho phật tử, ăn, ở, di chuyển trong thời gian tu học.






 


Chương trình tu học:
Thứ bảy 31/12/2011  
8AM ghi danh - hướng dẫn nghi thức và thiền quy
10AM khai mạc khoá tu – Hoà Thượng ban pháp từ
11AM thọ trai
12AM thiền hành
1PM nghỉ tự do
2PM Thuyết giảng: Có Pháp Môn Nào (Kinh Tương Ưng Bộ)….
3PM Pháp đàm
3.30PM Thiền toạ
5PM Dược thực
6PM Niệm Phật 6 căn
7PM giải lao
8PM Thiền Quán
9PM Nghỉ ngơi
Chương Trình Hằng Ngày:
4AM - thức dậy công phu sáng
6AM – ăn sáng
8AM – Thiền Toạ,Tai chi
10AM - Niệm Phật
11.30AM – cúng ngọ,  ăn trưa
12 giờ trưa -  thọ trai
1PM nghỉ trưa
2PM Thuyết giảng
4PM Thiền Hành, Kong Fu martial arts
5PM Niệm Phật
6PM Dược thực
7.30PM Niệm Phật
8.30PM Trà thiền
9PM chỉ tịnh – nghỉ ngơi

ANNUAL RETREAT & MEDITATION
Place: North Richmond NSW (near  Blue mountain).
Time: from 8AM Saturday 31 December 2011 till 4PM 6th January 2012.
Schedules of practice: strict meditation practice every day from 4AM morning till 9PM evening.
Conditions: No smoking, no drinking, no mobile phone, simple dress, no offensive languages or behavior during the sessions.
Practice: Meditation, Dhamma lectures, Reciting the Buddha titles, Reflection of mind, stress management, ethics and character development. Program attached.
No-Fee: All services are provided Free of charge – we provide free 4 star accommodations, vegetarian meals, and transport from North Richmond Railway station to the Meditation centre.
Dhamma Lessons and Meditation Instruction:  Vietnamese, Chinese, Thai and Tibetan monks. Main language spoken in the retreat session: English. Other languages’ Interpreter available during the Dhamma lectures if required.
Teachers: Sonnam Riponche, Venerable Thich Hanh Qua, Venerable Thich Dat Ma Hanh Nguyen, Venerable Thich Minh Tam.
Registration: Maximum 20 attendants.  First comes First served.
Contact for registration:
Sydney: 1. Venerable Thich Hanh Qua & Venerable Thich Minh Tam of Thien Phuoc temple 31 Avenel  Street, Canley Vale NSW 2165. Phone: 02-8704 5589 – Mobile phone 0416285782.
Melbourne: 2. Venerable Thich Phuoc The, Lien Tri temple, 2-4 Arthur Street, Braysbrook VIC 3019. Phone 03-93526351.
There will be intervening sessions for excursion to Blue Mountain and Botanic Garden and other Tibetan and Thai temples.


ANNUAL RETREAT REGISTRATION APPLICATION
Name: ………………………………………………………………………….……………………………….
Address/ contact: ………………………………………………………..………………………………..
Phone : ……………………………………………………… Email: ……………………………………….
Wish to apply to attend the Free annual retreat and meditation course  from 31st December 2011 till 6th January 2012 organized by Hwa Yen Buddhist Institute in North Richmond NSW.
I understand the Course shall include free accommodation, vegetarian meals, Dhamma lessons  and instructions during the practice.
I  understand the purposes and contents  of the above retreat program. I promise to comply with the conditions required by the course and stay in the course until the end of the course.
I indemnify the organization and instructors from all liabilities or damages whatsoever which may arise from and out of, and during,  the practice of the course.
I shall at my cost organize all kinds of health insurance for my personal benefits. I will bring my own medicine.
Date ……………………..
Applicant


Name and signature
Interviewer / instructor opinion
Approval: …………………………………………..
Decline:………………………………………………
Further conditions: ……………………………
Name and signature
Date …………………………………………………





PROGRAM
Saturday 31/12/2011
8AM Registration – Rules of practice
10AM Opening Speeches: The Most Venerable and VIP speeches
11AM Lunch
1PM Rest
2PM Dhamma lecture: If there is a way
3PM Dhamma Dialogue
3.30PM Tea Meditation
5PM Supper
6.30PM Reciting  the Buddhas and Reflection
7.30PM Meditation
9PM Rest

Daily Practice Program
4AM wake up – Chanting
6AM breakfast
8AM Meditation
10AM Reciting Buddhas & Chanting
11.30AM Prayer.
12 noon - Lunch
1PM rest
2PM Dhamma lecture
4PM Waking meditation
5PM Reciting Buddhas & chanting
6PM Supper/Refreshment
7.30PM Chanting and reciting Buddhas
8.30PM tea meditation
9PM rest

Bring your own medicine, clothes, personal items for 6 days.
You are kindly requested to stay until the end of the course.









Friday, October 14, 2011

1st Kagyu Monlan in Australian

1st Kagyu Monlan in Australian
Khát Vọng Cầu Nguyện Cho Thế Giới Hòa Bình

Chủ Lễ: Đại Cao Tăng Karma Kagyu (từ Tây Tạng) Cầu Nguyện Cho Thế Giới Hòa Bình

Thời gian: Ngày 15 ~ 17 Tháng Mười 2011.
Ngày 18 Tháng 10 ~ Lễ hàng 900 năm luân hồi của Ngài Đại Sư Dusum Khyenpa

Điạ điểm: Badgery Pavilion, Showgrounds Sydney Olympic Park, Homebush, Sydney.

Mục đích: lễ Kagyu Monlam tập trung  tất cả các phật tử để đạt thành khát vọng hòa bình thế giới và sự hòa hợp. 

Theo lời Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 17 Gyalwang Karmapa Ogyen Trinley Dorje: 'Kagyu Monlam là một con đường nhờ đó mà chúng ta có thể phát dương, vào những thời điểm nhu cầu rất lớn, tinh thần đích thực của tình thương và lòng từ bi cho tất cả mọi người trên thế giới, giống như một xoáy nước lớn, bắt đầu tại Bồ Đề Đạo Tràng, kế đó ở Bihar, rồi tiếp tục phát triển.  Khi chúng tôi cầu nguyện cho hòa bình thế giới, mục đích của chúng tôi là mong muốn hòa bình và hạnh phúc mở rộng cho tất cả mọi người.
Trong những năm gần đây, các lễ Kagyu Monlam được tổ chức hàng năm ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ, Đại Tháp dưới cây Bồ Đề, bên cạnh ghế Kim Cương, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đắc giác ngộ.

Mông ước của Đức Pháp Vương Gyalwang Karmapa là  tố chức lễ Kagyu Monlam ở những quốc gia khác hơn Ấn Độ để các phật tử có thế tham dự.  Đức Đạt Lai Lạt Ma đã yêu cầu Hòa thượng Dekhung Gyaltsey Tulku Rinpoche tổ chức lễ hội này cho nước Úc. 

Chúng tôi kính mời qúy vị sẽ tham dự lễ hội đặc biệt này.
Vào cửa miễn phí.
Thị giả: TK Thích Minh Tâm

Wednesday, July 6, 2011

Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni

Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni


Trích dẫn:
- Này Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử nay do thấy ta, chí tâm sám hối, nên đạo nhãn trong sáng, tội cũng trừ diệt.

Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng: "Ông nên chớ quá lo buồn thương khóc. Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát khỏi vòng khổ ách. Môn đà ra ni đây, vô lượng hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói, ta nay cũng sẽ diễn nói. Trong các thần chú về Phật Đảnh, môn đà ra ni này rất tối tôn tối thắng, hay trừ tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồi của tất cả chúng sanh!"


1. Namo bagabhàté,
2. Sarvatadran lokiya
3. Pradi vitistraya
4. Buddhaya bagabhàté
5. Tadyatha!
6. Aum! Bhrum bhrum, bhrum
7. Suddhàya, suddhàya.
8. Visuddhàya, visuddhàya.
9. Ásàma, sàma.
10. Samànta bhàvasad.
11. Sabhàrana gati gagàna.
12. Svabhàva visuddhi.
13. A'vicanya dumam.
14. Sarvàtattha gadà.
15. Sùgada.
16. Bhàra bhàcanà.
17. Amirtá pisàku.
18. Maha mudra mandara pana.
19. Aum! Áhara, áhàra.
20. Ayusàn dhàrani.
21. Suddhàya, suddhàya.
22. Gagana svabhàva visuddhi.
23. Usnisà vicaya, visuddhi.
24. Sáhàsara rasami santonité.
25. Sàrava tatthagàda.
26. Avalokini.
27. Sàrvatatthàgada matté
28. Sàtra pàramità.
29. Bari pùrani.
30. Nasà bùmipra dissité.
31. Sàrava tatthagada h'ridhàya.
32. Dissàna.
33. Dissité.
34. Aum! Mùdri mùdri, maha mùdri.
35. Vajra caya.
36. Samhàdanà visuddhi.
37. Sàrava Kama, bhàrana visuddhi.
38. Para durikati biri visuddhi.
39. Pratina varadhàya ayùsuddhi.
40. Samayà dissàna dissité.
41. Aum! Mani mani, maha mani.
42. Ámani, ámani.
43. Vimani, vimani, màha vimani.
44. Matdi matdi, màha matdi.
45. Tatthàda bùddha.
46. Kuthi virisuddhi.
47. Visaphora buddhi visuddhi.
48. Aum! hyhy
49. Jàya jàya
50. Vijàya vijàya.
51. Samara samara.
52. Sabhàra sabhàra.
53. Sàrabhà buddha.
54. Dissana
55. Dissité.
56. Suddhi suddhi.
57. Vàjri vàjri màhàvajri.
58. Ávàjri.
59. Vàjra gabi.
60. Jàya gabi.
61. Vijàya gàbi.
62. Vàjra jvàla gàbi.
63. Vàjro nagaté
64. Vàjro nabhàvé.
65. Vajra sambhàvé.
66. Vàjro vàjrina.
67. Vàjram vabhà dumàmà.
68. Sàriram sàrabhà sattabhànaim.
69. Tàcaya biri visuddhi.
70. S'ya vabhà dumi satna.
71. Sàrabhà gati birisuddhi.
72. Sàrabhà tatthagàda s'yami.
73. Sàma sabhà sadyantu.
74. Sarva tatthagada.
75. Sàma sàbhàsa dissité.
76. Aum! S'diya s'diya
77. Buddhiya buddhiya.
78. Vibuddhiya vibuddhiya.
79. Boddhàya boddhàya.
80. Viboddhàya viboddhàya.
81. Mocaya mocaya.
82. Vimocaya vimocaya.
83. Suddhàya suddhàya.
84. Visuddhàya visuddhàya.
85. Samànta tatbiri mocaya.
86. Samandhàya sami birisudhi
87. Sàrabhà tatthagadà samaya h'ridhàya.
88. Dissàna dissité.
89. Aum! Mudri mùdri maha mudra.
90. Mandàra pana.
91. Dissité.
92.Svàhà. 



Môn Như Lai Quán Đảnh Thanh Tịnh Chư Thú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni này tám mươi tám câu chi trăm ngàn hằng sa chư Phật đã tuyên thuyết, và nghiêm mật thủ hộ, tùy hỉ ngợi khen. Tất cả Như Lai đều đồng ấn khả. Nếu có Tì kheo, tì kheo ni, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào thọ trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy, những tội ngũ nghịch, thập ác trong trăm ngàn muôn kiếp đều được tiêu diệt, sẽ chứng quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Kẻ ấy trong hiện tại sẽ được túc mạng trí, rồi sanh từ cõi trời này đến cõi trời khác, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác. Kẻ ấy sẽ được chư Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí xoa đầu thọ ký, thường ở nơi đạo tràng, nghe hiểu và thọ trì chánh pháp. Kẻ ấy 3 nghiệp thân, ngữ, ý hằng thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ dứt trừ, được những xúc giác nhẹ lành, thọ mạng tăng thêm, không bị hoạnh tử. Kẻ ấy sẽ được chư thiên thần hộ vệ, chư Bồ Tát từ ái, chư Phật hệ niệm. Người thọ trì chú này sẽ đến cõi Địa ngục, ngạ quỷ, Diêm Ma vương đọc tụng, các tội phạm nơi đó đều được giải thoát, cảnh giới trống rỗng, các cung trời, cung điện BồTát, cung điện cõi Phật đều mở cửa rước người thọ trì vào.


- Tại sao thế? Bởi môn đà ra ni này hay trừ sạch tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh, hay cứu tất cả sự khổ nạn trong cảnh Diêm Ma, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục, hay độ thoát tất cả chúng sanh nghiệp dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu thọ, xấu xa, câm ngọng, đui điếc, hay cứu vớt các loại A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Phú Đơn Na, Ca Tra Phú Đơn Na (6), các thân quỷ thần, cho đến hay độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồi muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy tùy phận sẽ được sanh lên các cảnh giới an lành, và lần lượt đều được chứng quả giải thoát.

Nếu có người thọ trì chú này, từ kiếp hiện tại trở về sau, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo, thường sanh trong dòng quý tộc ở cõi người, hoặc sanh lên cõi trời, cho đến được cùng 10 phương chư Phật ở một chỗ, cùng chư Bồ Tát làm bạn lành, và kết cuộc sẽ chứng quả Vô Thượng Đẳng Giác.

* Nếu có chúng sanh nào bị khổ nạn, tội chướng cực nặng, không ai cứu hộ, nên chọn ngày trăng sáng, tắm gội, mặc y phục sạch sẽ, thọ bát quan trai giới, quỳ trước tượng Phật tụng đà ra ni này 1.080 biến thì tất cả tội nghiệp, chướng nạn đều tiêu diệt. Kẻ ấy sẽ được thanh tịnh giải thoát, được môn Tổng Trì Đà Ra Ni, biện tài vô ngại.

* Nếu kẻ nào tuy chưa trì tụng, mà chỉ nghe âm thanh của đà ra ni này lọt vào tai, tức liền thành hạt giống Phật. Ví như một chút kim cang rớt xuống đất, tất lần lượt xuyên lọt đến nơi bản tế mới dừng, đất tuy dày không thể làm trở ngại. Thần chú này cũng thế, khi đã lọt vào tai, liền huân tập khiến cho lần lần thành quả chánh giác, phiền não tuy nặng cũng không thể ngăn che. Dù kẻ ấy bị đọa vào cõi Địa Ngục, Ngạ quỉ, bàng sanh cũng không bị nghiệp báo làm cho hạt giống đó tiêu mất, mà còn nương sức thần chú lần lượt tiến tu cho đến khi thành Phật.

* Nếu chúng sanh nào một phen nghe được Đà Ra Ni này, qua kiếp hiện tại sẽ không còn bị các tật bịnh và các sự khổ não, cũng không còn thọ thân bào thai, tùy theo chỗ hóa sanh hiện nơi hoa sen. Từ đó về sau, ngũ nhãn lần lần thanh tịnh, được túc mạng trí, kiết sử tiêu trừ, sẽ chứng quả vô thượng đẳng giác.

* Nếu có kẻ nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến đà ra ni này vào một nắm đất hoặc cát, rải lên thi hài, kẻ ấy sẽ được sanh về 10 phương Tịnh Độ. Như người chết thần thức đã bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, khi đất cát ấy dính vào hài cốt, cũng được thoát khỏi ác thú, sanh lên cõi trời.

* Nếu chúng sanh nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến, ưng tiêu được sự cúng dường rộng lớn của tất cả thế gian, khi xả báo thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc, kẻ nào thường niệm tụng sẽ được tăng thọ mạng, hưởng sự vui thù thắng, tương lai sanh về 10 phương Tịnh Độ, nghe pháp mầu, được thọ ký, ánh sáng nơi thân chiếu tất cả cõi Phật, và chứng Đại Niết Bàn.

* Nếu muốn được oai lực tự tại, hành giả dùng các thứ bột như bột nếp, bột gạo v.v.. nắn thành hình người để 8 phương hướng nơi đàn tràng, ngày đêm đối tám phương mà tụng chú, tất cả sẽ được như ý.

* Nếu nước lụt dâng, hướng về phương đó tụng chân ngôn này 108 biến cầu nguyện, thì nước sẽ rút lui.

* Nếu bị nạn vua, nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu thiệt, tụng chú này 21 biến vào năm thứ nước thơm, đem rưới trên đảnh Phật, các nạn sẽ tiêu diệt.

* Nếu chúng sanh nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn ngày trăng sáng, trai giới, tắm gội, mặc y phục sạch, tụng chú này đủ 1.080 biến, sẽ được trường thọ, tất cả tội chướng đều trừ diệt.

* Nếu có người tụng chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ loài cầm thú nào, thì sanh loại ấy kiếp đó không còn thọ thân cầm thú, dù nó có nghiệp nặng sẽ bị đọa vào địa ngục, cũng được thoát ly.

* Nếu kẻ nào bị bịnh trầm trọng, chịu nhiều đau khổ, được nghe đà ra ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội chướng tiêu diệt. Cho đến các chúng sanh trong bốn loài nghe được chú này đều xả bịnh khổ, lìa thân bào thai, hóa sanh nơi hoa sen, tùy theo chỗ sanh, nhớ biết đời trước không quên mất.

* Nếu có chúng sanh nào vừa mới khôn lớn, đã tạo các thứ tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, cho đến lúc tuổi già, tự suy nghĩ biết mình do nghiệp ác này sau khi mãn phần sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ lớn trải qua nhiều kiếp, rồi xoay vần luân hồi trong 3 đường ác không ai cứu vớt. Người ấy nên chọn ngày rằm, tắm gội mặc y phục tinh khiết, dùng cái bát bằng vàng, bạc hoặc đồng, lượng chứa ước một thăng, đựng nước trong sạch để trước tượng Phật, thọ giới Bồ Tát, trì trai thanh tịnh. Nơi đàn tràng, mình đứng ở phương Đông hướng về tượng Phật ở phương Tây, đảnh lễ chí thành sám hối. Rồi tụng đà ra ni này 1.080 biến giữa chừng không gián đoạn, kế đó dùng nước ấy rưới bốn phương và trên dưới, nguyện cho tất cả đồng được thanh tịnh. Làm phép này xong, tất cả tội chướng đều được tiêu diệt, thoát khỏi nghiệp báo địa ngục tam đồ, vua Diêm Ma La buông tha, thần Tư Mạng vui đẹp, không sanh giận trách, trở lại chắp tay cung kính, tùy hỉ ngợi khen công đức.

* Nếu muốn cứu độ người tội nặng, nên chọn ngày rằm, tụng chú này vào mật hoặc sữa 1.080 biến, rồi cho người đó ăn. Làm như thế, đương nhơn sẽ tiêu trừ tội chướng sanh về cõi lành, lần lượt tiến tu, chứng quả vô thượng đẳng giác.

* Nếu tụng 21 biến chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng, rồi đem dùng có thể trừ bịnh đau răng, được mạnh khỏe, thông minh, trường thọ.

* Nếu muốn cứu độ tội khổ của loài súc sanh, nên gia trì chú này vào cát hoặc đất vàng 21 biến, rồi rải trên mình chúng và bốn phương, tội chướng của chúng nó sẽ tiêu diệt.

* Nếu có chúng sanh nào muốn được phước đức đầy đủ, muốn cầu tài bảo xứng ý, muốn cứu hộ mình và người nên khởi lòng lành, mỗi ngày phát nguyện sám hối, đối trước tượng Phật, kiết ấn tụng chú này bảy biến, tâm không tán loạn, mắt nhìn tượng Phật không di động, rồi đem công đức ấy hồi thí cho tất cả chúng sanh. Tác pháp và có tâm lành như thế, quyết định sẽ được như nguyện, tăng phước lộc trong hiện tại, cho đến cả những đời sau.

* Nếu hành giả ở nơi đàn tràng mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến gia trì vào chén nước sạch, rồi dùng tâm trân trọng bưng chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu trừ các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải mọi oán kết, tiếng nói thanh diệu, biện tài thông suốt, mỗi đời thường được Túc Mạng Thông, nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem chén nước ấy rưới trong phòng nhà, cho đến chỗ chuồng trâu, ngựa, thì nơi đó sẽ được oai lực của chân ngôn giữ gìn an ổn, trừ các nạn: la sát, rắn, rồng. Như đem chén nước ấy, miệng tụng chú rưới trên đảnh người bịnh và cho bịnh nhơn uống, các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.

* Nếu muốn tiêu trừ các tai chướng, nên dùng vải lụa vụn năm sắc, kết làm cây phất trần. Kế đó tụng chú nơi cây phất, quét bụi nơi tượng Phật và kinh. Thường làm như thế, chướng nạn của mình sẽ tiêu, mà tội nghiệp của chúng sanh cũng được trừ diệt.

* Nếu bị nhiều khẩu thiệt, tai tiếng phát khởi, nên dùng châu sa hòa với bạch mật, hoặc đường cát trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem thoa vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế khẩu thiệt, tai tiếng sẽ tiêu trừ.

* Nếu vợ chồng chán ghét nhau, muốn được hòa thuận, tụng chú vào vải hay lụa 21 biến, đem may áo cho chồng hoặc vợ mặc, làm như thế, vợ chồng sẽ hòa thuận.

* Nếu người nam hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu đắm, quyến luyến không tha, nên giữ chánh niệm vừa tụng chú vừa xoa khắp mình nạn nhân, kế đó lấy tay vỗ vào thân, ma quỉ liền bỏ chạy.

* Nếu người nữ không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch, tụng chú vào đó 108 biến, rồi đem cúng dường hiện tiền tăng, tất sẽ được như ý.

* Nếu chỗ ở có quỷ thần dữ khuấy rối, nên tụng chú vào thức ăn 21 biến rồi đem cúng thí cho ăn. Trong khi ấy lại nói: "Nay tôi cúng thí cho các vị, như không làm tổn hại chúng sanh thì tùy ý ở lại, nếu làm tổn hại thì phải mau đi nơi khác". Nếu quỷ thần hung hãn không nghe lời, nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú vào đó 21 biến rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế, các quỷ thần dữ phải chạy ra khỏi địa giới.

* Nếu có bệnh nhân bị tinh mị dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm chú vào mặt người bịnh mà tụng đà ra ni này, tinh mị sẽ xuất ra.

* Nếu có quỷ La Sát hoặc các loài quỷ dữ vào quốc giới gây đau bịnh, làm khủng bố và não loạn dân chúng, nên xưng niệm Tam Bảo, ngày đêm tụng trì chú này, kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng rải khắp bốn phương, thì các tai nạn đều tiêu diệt, làm như thế, cũng cứu được chúng sanh thọ khổ ở tam đồ.

* Nếu muốn thí nước cho loài ngạ quỷ, tụng chú này vào nước sạch 7 biến, rồi rải khắp 4 phương, tâm tưởng miệng nói, cầu cho chúng được thọ dụng, thì các ngạ quỷ sẽ được uống nước cam lộ.

* Nếu người nào buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường kiết ấn tụng chú này 21 biến, an trí tượng Phật nơi chỗ tinh sạch kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.

* Nếu người nào mỗi ngày 3 thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến, cung kính cúng dường, chí tâm thọ trì, vì người khác giải nói, người ấy sẽ được an vui, sống lâu, không bịnh, phát sanh trí huệ được túc mạng thông, khi lâm chung như ve thoát xác, liền được sanh về thế giới Cực Lạc, tai không còn nghe tiếng địa ngục, huống chi bị sa đọa. Kẻ ấy sẽ tuần tự tiến trên đường đạo quả cho đến khi thành Phật.

Sunday, May 15, 2011

Tâm Kinh

Phiên Âm Việt
Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời , chiếu kiến ngũ-uẩn giai không , độ nhất thiết khổ ách .
"Xá-Lợi-Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ,Tưởng,Hành,Thức diệc phục như thị ".
Xá-Lợi-Tử! thị chư pháp không tướng, bất sanh , bất diệt, bất cấu , bất tịnh, bất tăng , bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ , tưởng , hành , thức.
Vô nhãn , nhĩ , tỷ thiệt , thân , ý ; vô sắc ,thanh , hương , vị ,xúc , pháp ; vô nhãn giới ,nãi chí vô ý thức giới.
Vô Vô-minh diệc , vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô Khổ , Tập , Diệt , Đạo , vô Trí diệc vô Đắc, dĩ vô sở đắc cố , Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật--đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên đảo mộng-tưởng, cứu cánh Niết-Bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú . Tức thuyết chú viết:
'" Yết-đế , yết-đế , Ba-la yết-đế . Ba-la-tăng yết-đế Bồ-đề tát-bà-ha ".
 
 
Dịch tiếng Việt
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Này Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Này Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập, diệt, đạo.
Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:
Yết đế yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề , tát bà ha.
 
 
 
 

Chú Đại Bi

Phien Âm tiếng Việt

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

 Tiếng Phạn

narakindi svāhā māraṇara svāhā
नरकिन्दि स्वाहा मारणर स्वाहा
śira saṃha mukhāya svāhā sarva mahā asiddhāya svāhā
शिर संह मुखाय स्वाहा सर्व महा असिद्धाय स्वाहा
cakra asiddhāya svāhā padma hastrāya svāhā
चक्र असिद्धाय स्वाहा पद्म हस्त्राय स्वाहा
nārakindi vagalaya svāhā mavari śankharāya svāhā
नारकिन्दि वगलय स्वाहा मवरि शन्खराय स्वाहा
namah ratnatrayāya namo āryavalokiteśvarāya svāhā
नमः रत्नत्रयाय नमो आर्यवलोकितेश्वराय स्वाहा
oṃ sidhayantu mantra padāya svāhā
ॐ सिधयन्तु मन्त्र पदाय स्वाहा