2. Bốn
Loại Người Không Sợ Chết Là Ai ?
Loại Người Thứ Nhất Không Sợ Hãi khi
Chết.
Loại
thứ nhất là những người khi cận chết đã biết rõ, hiểu rõ, thể nghiệm, chứng
nghiệm bằng tuệ giác rằng con cái, vợ chồng, của cải, quyền chức là vô thường,
không phải của ta, không có thực tánh, ngay chính bản thể của chúng nó cũng là
vô thường. Những người này vì đã hiểu rõ nên trong tâm thức đã chuẩn bị và biết
rõ vô thường là vô thường, vô ngã thực sự là vô ngã. Khi thân (khandha) cảm
nhận cái sự tăng trưởng cao của Cảm Thọ, người ấy biết chắc rõ sự cảm thọ này
không sanh ra do ước muốn, hay dính mắc mà cũng không thể biến mất bằng sự
không chấp nhận, chối bỏ.
Đức
Phật đã dạy nếu người ấy thể nghiệm rõ rằng con cái, tài sản, vợ chồng, quyền
lực (kể cả chuà chiền, luận thuyết, đệ tử….) cũng không có cái chủ thể NGÃ
trong đó, họ không còn chút sợ hãi cái chết nữa.
Loại Người Thứ Hai Không Sợ Hãi khi Chết.
Loại
thứ hai không sợ chết cũng thế. Họ thể nghiệm vô thường, khổ, vô ngã và thể
nghiệm cái TA cũng chỉ là không thực như thế, thì họ cũng sẽ không còn sợ hãi khi
đối diện vơi cái cận chết.
Loại Người Thứ Ba Không Sợ Hãi khi Chết.
Loại
thứ ba là những người luôn luôn quán chiếu hằng ngày, hằng đêm, bằng tỉnh giác
thiền tuệ. Họ biết chắc không một chút mảy may nghi ngờ rằng họ sẽ sanh về Niết
Bàn hay Sugati[1] ; nơi
mà họ sẽ phải hoàn tất những cái còn thiếu sót, thì họ cũng sẽ không còn sợ hãi
nữa, phải không ạ ?
Loại Người Thứ Tư Không Sợ Hãi khi Chết.
Loại
thứ tư là những người luôn quan sát với tuệ quán ngay khi cận chết về các hiện
tượng sanh diệt (Phyit-Pyet) của các pháp. Họ biết rõ các pháp sanh thì các
pháp cũng diệt. Loại người này cũng không còn sợ hãi chết nữa phải không các
bạn ?
Vấn đề
mấu chốt ở đây là Xúc duyên Thọ. Hễ Bạn còn hằng ngày thông qua năm căn Xúc (phassa
contact) với con cái, chồng vợ, của cải, chùa chiền, đệ tử thì việc dứt bỏ THỌ
và ÁI là chỉ là mộng huyễn, không thể thành tựu đạo quả được. Đó là nguyên nhân
tại sao đức Phật trong kinh Tứ Niệm Xứ dạy các đệ tử tỳ kheo của Ngài phải cách
ly, vào rừng, ngồi một chỗ vắng thường xuyên quán chiếu. Vào rừng không có
nghĩa là Bạn phải vào rừng thực sự, nhưng tìm một nơi vắng vẻ không có các yếu
tố ngoại thân ảnh hưởng đến việc hành trì của Bạn. Nhất là chính Bạn phải Khoá
cái Miệng của Bạn. Hễ còn mở miệng là còn tạo cơ hội cho các pháp bất thiện chen vào ngay
lập tức.
Cổ đức
có nói:
Há khẩu thần khí tán
Động lưỡi thị phi sanh
(Mở miệng ra là năng lượng lành bay mất. Khởi động nói là chuyện lành
dữ đúng sai theo đuôi)
Đức Thế
Tôn cũng dạy Ngài Rahula như sau: “Này Rāhula, bởi vậy con hãy yếm ly con mắt,
yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức, yếm ly nhãn xúc, do duyên nhãn xúc này, được
khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; con hãy yếm ly các pháp được khởi lên ấy”.
“Con hãy yếm ly tai, yếm ly các tiếng...; yếm ly mũi, yếm ly các hương...; yếm
ly lưỡi, yếm ly các vị...; yếm ly thân, yếm ly các xúc...; yếm ly ý, yếm ly các
pháp…; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc. Do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ,
tưởng, hành, thức; con hãy yếm ly các pháp được khởi lên ấy”. Do yếm ly, con
được ly tham. Do ly tham, con được giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu
biết: "Ta đã được giải thoát ". Và con biết: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa".
Các đại
đệ tử thánh tăng của Ngài cũng làm theo y như thế. Chỉ bằng tuệ quán thành tựu
trong kinh nghiệm nắm bắt sinh diệt của các pháp thì khi cận tử người này sẽ
không còn sợ hãi nữa.
Đức
Phật dạy: trí tuệ (Magga) của hành giả về bản chất vô thường hiện hữu và sự vận
hành của pháp duyên sanh sẽ giúp người đó vững chải ngay khi đối diện với cái
chết. Ngài nói tiếp: “Này Punna, Brahmin, Như Lai sẽ giải thích rõ cho ngươi.
Hãy lắng nghe.” “Chỉ những người đặt con cái, vợ chồng, của cải, quyền chức,
chùa chiền, đệ tử, luận thuyết…v…v là đề mục của thiền tuệ quán và thường xuyên
Quán Xét Đề Mục Ấy như thế bằng tuệ giác
trực nghiệm, thì khi cận tử, người ấy sẽ xuyên suốt thể nghiệm Cảm Thọ và sự
sinh diệt của nó. Họ sẽ không còn nghi ngờ hay sợ hãi gì về cái chết”.
Những
người này đã hoàn tất những việc cần làm để thanh tịnh thân tâm thì chắc chắn họ
sẽ có nụ cười trên môi khi họ chết vì (i) họ không còn sợ hãi hay nghi ngờ về
nơi mà họ sẽ đến sau khi chết. (ii) Những người cũng có nụ cười khi họ chết vì
họ biết họ đang trên tiến trình hoàn tất những việc cần phải làm và họ sẽ sanh
vào cảnh giới tốt (thí dụ như cõi Cực Lạc) để tiếp tục những việc họ đang làm
dở dang.
Trường hợp Kisā Gotamī là một thí dụ:
Nghe xong
Kisā Gotamī liền chứng Tu-đà-hoàn, đầy đủ tứ bất hoại tín. Nàng xin Phật được
xuất gia, đức Phật chấp thuận và đưa nàng cho Tỳ kheo ni Kiều Đàm Di
(Mahāpajāpatī Gotamī) làm lễ xuất gia trong ni đoàn. Sau khi xuất gia Tỳ kheo
ni Kisā Gotamī tinh tấn thực hành thiền quán trong từng cử chỉ oai nghi. Khi
thân như thể nào thì ghi nhận như thế đó, thân bước tới thì biết là đang bước
tới; thân bước lui thì biết là đang bước lui; khi co tay duỗi chân thì biết
đang co tay duỗi chân; khi đang ngồi thì để ý điểm xúc chạm của thân và mặt
đất; khi thở vào thở ra thì thấy sự chuyển động của sự hô hấp…. Quán sát một
cách thuần túy, liên tục; thân như thế nào thì thấy đúng như thế ấy, không
tưởng tượng, không áp đặt gì thêm, không có TÔI trong đó. Tuy là đơn giản nhưng
sự kỳ diệu là chính nhờ TÂM chăm chú quan sát những hành động bình thường như
vậy mà thấy được sự sanh diệt (vô thường) của các pháp trong từng sát na. Thấy
vậy, biết vậy, thể nghiệm vậy, chứng vậy, Tỳ kheo ni Kisā Gotamī trở thành một
vị A-la-hán.
Bốn nhóm người không sợ hãi khi chết đã có đủ năng lực quán chiếu sự sinh diệt của cảm thọ. Họ có một cái hiểu thanh tịnh về summum bonum - một trạng thái mà Phật học gọi là Niết Bàn. Ngay cả tuệ tri về những quả vị mà họ sẽ chứng đắc. Liệu rằng họ có mỉm cười khi chết hay không ? Đức Phật cũng thế. “Không những ta đã thấy Niết Bàn mà chính ta đã thể nghiệm mùi vị Niết Bàn (Magga Phala)”.
Bốn nhóm người không sợ hãi khi chết đã có đủ năng lực quán chiếu sự sinh diệt của cảm thọ. Họ có một cái hiểu thanh tịnh về summum bonum - một trạng thái mà Phật học gọi là Niết Bàn. Ngay cả tuệ tri về những quả vị mà họ sẽ chứng đắc. Liệu rằng họ có mỉm cười khi chết hay không ? Đức Phật cũng thế. “Không những ta đã thấy Niết Bàn mà chính ta đã thể nghiệm mùi vị Niết Bàn (Magga Phala)”.
[1] Giống như cõi Cực Lạc tạm thời
trong Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh A Di Đà.
[2] đắm say tức là vô
minh + tham ái do Thọ duyên Ái nên đau khổ. Đây là trạng thái khát ái của Tâm
(Desire)
[3] các
vật hữu hình
[4] tử
thần chính là sinh tử luân hồi của chính ta. Nghiệp này do ta tự tạo vì vô minh
tham ái
[5] Ngủ say trên vô
minh quên nên bị lụt tham ái trôi
No comments:
Post a Comment