Sunday, October 31, 2010

Dhammapada Introduction

Lúc Phật còn tại thế, Ngài Buddhaghosa không cho ghi chép Kinh. Ngài chỉ thuyết bằng tiếng Pàli, tiếng bình dân xứ Magadha, không có chữ Nam Phạn, Bắc Phạn (sanskrit) là của Đạo Bà La Môn, tuy hơi giống như tiếng Pàli, nhưng không phải là một thứ tiếng như tiếng Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc của xứ ta" (Quyển Chú Giải Kinh Pháp Cú-tr 94, Q 1. Dịch Giả Trưởng lão Pháp Minh).

Kinh Pháp Cú (click at the title)

Galileo is famous for his historical statement addressing to the Roma Catholic Council some thousand years ago: "Yes, I am at fault with the Catholic Council, and even if I am beheaded the Earth is round and moving around itself and going around the Sun".


Galileo nổi tiếng với câu nói lịch sử: "Muôn tâu bệ hạ, đầu hạ thần có thể rơi, nhưng trái đất vẫn xoay chung quanh mặt trời".

Kinh Pháp Cú - Introduction



Lúc Phật còn tại thế, Ngài Buddhaghosa không cho ghi chép Kinh, vì sợ tam sao thất bổn. Mấy Tổ về sau giỏi chữ nghĩa văn chương nhất là vị gốc Bà La Môn sẽ có thể thêm bớt làm sai lệch nguyên bổn, Ngài chỉ thuyết bằng tiếng Pàli, tiếng bình dân xứ Magadha, không có chữ Nam Phạn, Bắc Phạn (sanskrit) là của Đạo Bà La Môn, tuy hơi giống như tiếng Pàli, nhưng không phải là một thứ tiếng như tiếng Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc của xứ ta" (Quyển Chú Giải Kinh Pháp Cú-tr 94, Q 1. Dịch Giả Trưởng lão Pháp Minh). 

Trong suốt 45 năm thuyết giảng giáo pháp, Đức Phật đã dùng vô số phương pháp để hóa độ chúng sanh. Những phương pháp ấy đều có chứa những bài kệ ngắn gọn, hàm xúc, thú vị, tinh túy, hữu ích và đúng theo chân lý. Những câu Pháp Cú nằm trong Kinh- Luật- Luận thuộc Nam Truyền và Bắc Truyền. Sau khi Đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn thì kinh Pháp Cú trở thành áng văn bất hủ cho cả hai giới Tại Gia và Xuất Gia.
Chính sự lan truyền rộng rãi của kinh Pháp Cú nên dần dần dễ dẫn tới việc sai khác về ngôn từ và ý nghĩa của kinh so với nguyên bản. Vì thế, khi mới xuất gia học đạo liền bắt gặp trong quyển "Sa Di Luật Giải" của Hòa Thượng Hành Trụ, phần Qui Sơn Cảnh Sách, trang 497 có đoạn viết:

"Đức Như Lai diệt độ chưa bao lâu, có một ông Tỳ Kheo, lầm tụng bài kệ trong kinh Pháp Cú: "Nếu người sống trăm tuổi, chẳng thấy con Hạc già dưới nước, chẳng bằng sống một ngày mà đặng thấy rõ đó" khi ấy ngài A Nan Tôn giả nghe rồi nguôi thản than rằng: "Chánh Pháp Như Lai sao mà diệt mau lắm vậy!" Rồi nói với Thầy Tỳ Kheo kia rằng: Thưa Huynh! Đức Phật, Ngài nói: "Nếu người sống trăm tuổi chẳng thấy sanh diệt, chẳng bằng sống một ngày mà thấy rõ đó". Ông Tỷ Kheo ấy bấy giờ trở về thuật lại với Bổn sư, sư nói: "Ơi! Ông A Nan già cả, nói hay lầm lộn không nên tin vậy. Ngươi cứ về tụng như trước đi."Ôi! Xét như xưa đời chánh pháp hãy còn lầm lộn như thế đó. Huống đời bây giờ cách Phật đã xa, không gần Thầy hay Bạn giỏi, làm sao nói ra cho nhằm Kinh Luật ấy ư?"
Qua đoạn trích trên,  nguyên nhân có sự nhầm lẫn giữa chữ "sanh diệt" với "hạc già" là xuất phát từ sự truyền khẩu của kinh, truyền từ người này qua người nọ nên dẫn đến sự sai khác. Như theo bản PàLi câu 113 trong Phẩm Ngàn, tức là câu 14 của bản phụ lục ở phía sau cho biết: "Yo ca vassa- satam jìve apassam udaya – vyayam" (Ai sống một trăm năm mà không thấy sanh tử). Và theo bản Prakrit câu 317 cho thấy: "Ya ji vasa – s ado jivì apas u udaka - vaya". (Ai sống một trăm năm mà không thấy sanh tử). Do lẫn lộn chữ "Udaka-vaya" dịch là "Sanh tử" đọc nhầm thành "Udaka-bakam" dịch là "Hạc nước". Sự đọc nhầm này cũng do một phần sau khi Đức Phật nhập diệt, phần đông các vị Tổ về sau đều là gốc Bà La Môn nên họ cứ tin tưởng và chấp chặt vào ngôn ngữ của mình, không để ý đến nghĩa của chữ dẫn đến sự nhầm lẫn như thế.

"Dhammapada" nghĩa là gì? Dhamma tam dịch là Pháp, Pada dịch là Cú (câu). Dhammapada tức là những câu ghi chép lại lời dạy Đức Phật, nên thường được dịch là Pháp Cú.


Chữ "Dhamma" là Pháp, có nhiều nghĩa như chân lý, giác ngộ, giải thoát hàm chứa: là giáo pháp, chánh pháp, chân lý được Đức Phật khai thị; là Phật ngôn, pháp ngữ hay những lời giáo huấn của Đức Phật về chơn, thiện, mỹ; là kỷ luật, phép tắc, tín ngưỡng hình thức sinh hoạt của Phật Giáo.


Chữ "Pada" là Cú (câu) nghĩa là đường lối, lối đi, nền tảng căn bản. Pada cũng có nghĩa là bàn chân, bước chân.

Cuối cùng, "Dhammapada" có thể có nghĩa là những bàn chân hay bước chân đưa đến chân lý giác ngộ, giải thoát; đưa đến chân, thiện, mỹ v.v... Được hiểu như là "con đường chân lý, con đường đạo hạnh."


Kinh Dhammapada theo truyền thống được xem là bộ kinh được kiết tập vào kỳ kiết tập thứ nhất, ngay ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Có thể nói đây là một cuốn kinh chứa đựng một cách gọn ghẽ, đầy đủ giáo lý nguyên thủy của Đức Phật. Hay nói một cách khác là một cuốn kinh chọn lọc những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Ngài đã truyền dạy trong khoảng ba trăm trường hợp giáo hóa khác nhau trong suốt 45 năm thuyết pháp độ sanh, Ngài đã giảng nhiều pháp ngữ chứa đựng nghĩa lý thâm thúy để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh mà đưa họ đến Niết Bàn an lạc. Những giáo pháp ấy được trình bày dưới hình thức các bài kệ đơn giản và súc tích gồm phần lớn là bốn câu, thỉnh thoảng lên đến sáu câu và mỗi câu gồm có tám âm đồng đều, cụ thể qua 423 gàthà (bài kệ) chia làm 26 vagga (phẩm) như sau:


01Yamaka VaggaPhẩm Song Yếu20 bài kệ
02Appamàda VaggaPhẩm Không Phóng Dật12 bài kệ
03Citta VaggaPhẩm Tâm11 bài kệ
04Puppha VaggaPhẩm Hoa16 bài kệ
05Bàla VaggaPhẩm Ngu16 bài kệ
06Pandita VaggaPhẩm Hiền Trí14 bài kệ
07Arahanta VaggaPhẩm A La Hán10 bài kệ
08Sahassa VaggaPhẩm Ngàn16 bài kệ
09Pàpa VaggaPhẩm Ác13 bài kệ
10Danda VaggaPhẩm Hình Phạt17 bài kệ
11Jarà VaggaPhẩm Già11 bài kệ
12Atta VaggaPhẩm Tự Ngã10 bài kệ
13Loka VaggaPhẩm Thế Gian12 bài kệ
14Budda VaggaPhẩm Phật Đà18 bài kệ
15Sukha VaggaPhẩm An Lạc12 bài kệ
16Piya VaggaPhẩm Hỷ Ái12 bài kệ
17Kodha VaggaPhẩm Phẫn Nộ14 bài kệ
18Mola VaggaPhẩm Cấu Uế21 bài kệ
19Dhammattha VaggaPhẩm Pháp Trụ17 bài kệ
20Magga VaggaPhẩm Đạo17 baì kệ
21Pakinnaka VaggaPhẩm Tạp Lục16 bài kệ
22Niraya VaggaPhẩm Địa Ngục14 bài kệ
23Nàga VaggaPhẩm Voi14 bài kệ
24Tanhà VaggaPhẩm Tham Ái26 bài kệ
25Bhikkhu VaggaPhẩm Tỷ Kheo23 bài kệ
26Bràhmana VaggaPhẩm Bà La Môn41 bài kệ


Căn cứ vào bài tựa của Kinh Pháp Cú, ĐTK 210 tờ 566 b14 – c 26, quá trình hình thành văn bản chữ Hán được trình bày như sau:
"Kệ Đàm Bát là yếu nghĩa trong kinh. Đàm đó là Pháp, Bát đó là Cú, mà Kinh Pháp Cú có vài bản để phân biệt. Có bộ gồm 900 bài kệ, hoặc có bộ 700 bài kệ và 500 bài kệ. Kệ là lời đúc kết lại cũng giống như thi tụng vậy. Đó chính là Đức Phật thấy sự việc nêu lên chẳng phải Ngài nói trong cùng một lúc mà tất cả đều có nhân duyên được phân bố chặt chẽ trong các kinh. Đức Phật là bậc Nhất Thiết Trí, tánh của Ngài là một bậc đại nhân cho nên Ngài thương xót chúng sanh mà xuất hiện nơi đời, mở bày đạo nghĩa để cứu độ con người. Trong 12 bộ kinh, tổng quát yếu nghĩa của từng thể loại mà chia ra làm nhiều bộ. Sau khi Đức Phật nhập diệt, Ngài A Nan trùng tuyên lại 4 bộ A Hàm (Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm). Kinh không có dài ngắn, mở đầu ngài A Nan đều tụng: Nghe như vầy, và nơi chốn Đức Phật thuyết pháp, là nơi diễn đạt những lời đầy đủ tự thuyết của Ngài. Sau đó, năm bộ Sa Môn mỗi mỗi sao chép ra thành kệ 4 câu hoặc 6 câu trong các kinh rồi so sánh, phán định ý nghĩa vào các điều chương mà phân biệt thứ loại, từng phẩm. Đối với 12 bộ kinh không đâu không tham cứu rút ra và không có một tên gọi nhất định cho nên gọi là Pháp Cú. Các Kinh là pháp ngôn, pháp cú do từ pháp ngôn mà có ra vậy. Gần đây người họ Cát có lưu truyền 700 bài kệ, nghĩa của kệ rất sâu xa, người dịch ra rất nhiều. Do nghĩa lý ẩn sâu trong kinh mà khiến cho người dịch lẫn lộn. Chỉ có Đức Phật là khó gặp, giáo pháp cũng khó mà nghe được. Lại nữa, Chư Phật xuất thế ở Thiên Trúc nên ngôn ngữ Thiên Trúc với Hán ngữ khác âm. Sách của Thiên Trúc gọi là Thiên Thư, lời âm nói gọi là Thiên Ngữ. Do ngôn ngữ và sự vật bất đồng nên truyền đạt sự chân thật chẳng phải là chuyện dễ. Ngài Lam Điều, An Hầu Thế Cao, Đô Quý Phật Điều dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Trung Hoa, sự thật đạt được thể của ngôn ngữ nhưng việc ấy khó có người kế thừa. Người sau lưu truyền không thể sâu sắc nhưng vẫn còn tôn trọng chỗ quý báu những bản kinh, và tạm cho phần này đã đạt được chỉ thú của kinh.Người đầu tiên là Duy Kỳ Nan sinh ra ở Thiên Trúc vào năm thứ ba đời Hoàng Vũ đến Vũ Xương, tôi mới theo ngài Duy Kỳ Nan mà nhận được bộ sách gồm 500 bài kệ, mời người đồng đạo Trúc Tướng Diễm dịch. Tướng Diễm, tuy giỏi tiếng Thiên Trúc nhưng mà chưa am hiểu đầy đủ Hán ngữ cho nên lời truyền đạt của Ngài hoặc còn Phạn ngữ, hoặc lấy nghĩa mà dịch thành âm. Vì thế văn nghĩa chất phác, lời của nói không đẹp, không bóng bẩy. Đầu tiên, Duy Kỳ Nan nói rằng: Lời của Phật nương theo nghĩa mà không dùng sự trau chuốt ngôn từ, chọn lấy pháp mà không lấy chỗ nghiêm sức. Phàm người truyền dịch kinh được dễ hiểu, chớ nên làm mất đi nghĩa lý của Kinh. Được như vậy là điều hay nhất, cần thiết nhất. Những người ngồi ở đạo tràng phiên dịch đều cho rằng: Lão Tử nói ngôn từ trau chuốt thì không đáng tin, lời đáng tin thì không cần hoa mỹ. Khổng Tử cũng nói rằng: Thư viết ra không hết lời, lời nói ra thì không thâu tóm được hết ý. Đó là những lời nói của bậc Thánh Nhân. Ý của bậc Thánh Nhân thâm thúy vô cùng, nay thì người truyền đạt ý nghĩa của tiếng Phạn cần phải thấu đạt được ý Kinh. Vì thế, từ những bài kệ được người dịch ra cần phải chính lý yếu chỉ, chớ không cần thêm trau chuốt văn chương. Nếu có dịch những chỗ không hiểu thì thiếu sót không thể truyền đầy đủ, cho nên phần nhiều có sự thiếu sót, phần lớn do sự có ra ngoài những trường hợp mất mát ý nghĩa. Nhưng bài kệ Pháp Cú này, tuy lời mộc mạc, chất phác mà ý chỉ sâu sắc.
Văn sơ sài, ước lược mà nghĩa thì rộng lớn nên sự việc được dẫn dắt trong các kinh. Chương phẩm có đầy đủ, câu cú có ý nghĩa. Những người mới tu học ở tại Thiên Trúc không học Kinh Pháp Cú cho là vượt quá thứ bậc nhưng kinh này mới chính là quy tắc lớn cho người mới học và kho tàng sâu kín của người thâm nhập. Khó có thể khai mở cho những người sơ cơ phân biệt những chỗ lầm lẫn, dụ dẫn chúng sanh đi đến chỗ tự lập. Công sức tu học ít, mà chỗ hiểu biết thì rộng. Kinh này, thật đáng cho là cốt yếu và vi diệu thay! Khi xưa lúc truyền đạt kinh này. Tôi có chỗ không hiểu, gặp lúc ông Tướng Diễm đến cho nên theo đó mới thưa hỏi và thọ nhận lấy những bài kệ này rồi được thêm 13 phẩm nữa, đồng thời so sánh với những bản cổ rồi tăng bổ hiệu đính lại, sắp xếp phẩm mục gom lại một bộ thành 39 phẩm gồm có 752 bài kệ, ngỏ hầu để cho có sự bổ ích và rộng cho sự học hỏi."




 Kinh Pháp Cú còn có tên gọi Pháp Cú Tập Kinh, Pháp Cú Tập, Pháp Cú Lục, Đàm Bát Kinh, Đàm Bát Kệ. Đó chính là Đức Phật thấy sự việc mà nêu lên. Kinh không có dài ngắn, mở đầu được ngài A Nan đều tụng: Tôi nghe như vậy và nơi chốn Đức Phật thuyết pháp.v.v... Nghĩa là có đầy đủ lục chủng thành tựu. Sau đó, năm bộ Sa Môn sao chép ra thành kệ bốn câu, sáu câu trong các kinh mà phân biệt thứ loại, từng phẩm. Gần đây ngưới họ Cát có lưu truyền 700 bài kệ, nghĩa của kệ rất sâu, người dịch ra rất nhiều. Về sau ngài Lam Điều, An Hầu Thế Cao, Đô Quý Phật Điều dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Trung Hoa. Người đầu tiên là Duy Kỳ Nan sinh ra ở Thiên Trúc nói rằng: Lời của Phật nương theo nghĩa mà không dùng sự trau chuốt ngôn từ, chọn lấy pháp mà không lấy chỗ nghiêm sức. Những người ngồi ở đạo tràng phiên dịch đều cho rằng: Lão Tử nói ngôn từ trau chuốt thì không đáng tin, lời đáng tin thì không cần hoa mỹ. Khổng Tử cũng nói rằng: Thư viết ra không hết lời, lời nói ra thì không thâu tóm được hết ý. Đó là những lời nói của bậc Thánh Nhân. Ý của bậc Thánh Nhân thâm thúy vô cùng nay thì người truyền đạt ý nghĩa của tiếng phạn cần phải thấu đạt được ý kinh. Vì thế, những bài kệ Pháp Cú này, tuy lời mộc mạc, chất phác mà ý chỉ sâu sắc. Văn sơ sài, ước lược mà nghĩa thì rộng lớn nên sự việc được dẫn dắt trong các kinh. Những người mới tu học ở tại Thiên Trúc không học kinh Pháp Cú cho là vượt quá thứ bậc, nhưng kinh này mới chính là quy tắc lớn của người thâm nhập. Kinh gồm 2 quyển, 39 phẩm, 752 bài tụng do ngài Pháp Cứu, người Ấn Độ soạn, ngài Duy Kỳ Nan nước Ngô dịch vào thời Tam Quốc (có thuyết cho rằng do ngài Chi Khiêm và Trúc Tướng Diễm dịch vào năm 224) được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, ĐTK 210 tờ 559a1 – 575 b10. Nội dung gom góp những bài kệ do Đức Phật nói trong các kinh mà biên tập thành, được thể hiện ở mỗi bài kệ có bốn câu, sáu câu, có lúc tám câu; mỗi câu có bốn chữ hay năm chữ. Kinh Pháp Cú trình bày cụ thể qua hai quyển với 39 phẩm 752 bài kệ như sau:


Quyển Thượng
 
10Phẩm Phóng Dật20 bài kệ
11Phẩm Tâm Ý12 bài kệ
12Phẩm Hoa Hương17 bài kệ
13Phẩm Ngu Ám21 bài kệ
14Phẩm Minh Triết12 bài kệ
15Phẩm La Hán10 bài kệ
16Phẩm Thuật Thiên16 bài kệ
17Phẩm Ác Hành22 bài kệ
18Phẩm Đao Trượng14 bài kệ
19Phẩm Lão Mạo14 bài kệ
20Phẩm Ái Thân13 bài kệ
21Phẩm Thế Tục14 bài kệ

Quyển Hạ:
 
22Phẩm Thuật Phật21 bài kệ
23Phẩm An Ninh14 bài kệ
24Phẩm Hảo Hỷ12 bài kệ
25Phẩm Phẫn Nộ26 bài kệ
26Phẩm Trần Cấu19 bài kệ
27Phẩm Phụng Trì17 bài kệ
28Phẩm Đạo Hành28 bài kệ
29Phẩm Quãng Diễn14 bài kệ
30Phẩm Địa Ngục16 bài kệ
31Phẩm Tượng Dụ18 bài kệ
32Phẩm Ái Dục32 bài kệ
33Phẩm Lợi Dưỡng20 bài kệ
34Phẩm Sa Môn32 bài kệ
35Phẩm Phạm Chí40 bài kệ
36Phẩm Nê Hoàn35 bài kệ
37Phẩm Sanh Tử18 bài kệ
38Phẩm Đạo Lợi19 bài kệ
39Phẩm Kiết Tường19 bài kệ


Full studies of Dhammapada here.

Dhamma Verse 1 & 2

Phap Cu 277. Dhamma Verse 277.

"A-tu- la nên biết 
Xưa vậy, nay cũng vậy: 
Ngồi im, bị người chê, 
Nói nhiều, bị người chê, 
Nói vừa phải, bị chê. 
Làm người không bị chê, 
Thật khó tìm ở đời." (Pháp Cú 227)

1. Twin Verses (Yamaka-vaggo)


(Pali language)

Manopubba'ngamaa dhammaa manose.t.thaa manomayaa
Manasaa ce padu.t.thena bhaasati vaa karoti vaa
Tato na.m dukkhamanveti cakka.m'va vahato pada.m. -- 1

Manopubba'ngamaa dhammaa manose.t.thaa manomayaa
Manasaa ce pasannena bhaasati vaa karoti vaa
Tato na.m sukhamanveti chaayaa'va anapaayinii -- 2


(English translated by Muller)

All that we are is the result of what we have thought: it is founded on our thoughts, it is made up of our thoughts. If a man speaks or acts with an evil thought, pain follows him, as if the wheel follows the foot of the ox that draws the carriage.

All that we are is the result of what we have thought: it is founded on our thoughts, it is made up of our thoughts. If a man speaks or acts with a pure thought, happiness follows him, like a shadow that never leaves him.

English translation by Bhikkhu Khantipalo & Sister Susanna 

1. Mind precedes all knowables, 
mind's their chief, mind-made are they. 
If with a corrupted mind 
one should either speak or act 
dukkha follows caused by that, 
as does the wheel the ox's hoof.

2. Mind precedes all knowables, 
mind's their chief, mind-made are they. 
If with a clear, and confident mind 
one should speak and act 
happiness follows caused by that, 
as one's shadow ne'er departing.

dien giai HT Thích Trí Quang


Pc. 1
Ðối với các pháp
tâm ý dẫn đầu.
làm chủ, tác động.
do vậy nếy ai
đem ý nghĩ ác
mà miệng nói ác
mà làm thân ác,
thì sự đau khổ
đi theo người ấy
như xe lăn theo
con thú kéo xe.

Pc. 2
Ðối với các pháp,
tâm ý dẫn đầu
làm chủ, tác động.
do vậy nếu ai
đem ý nghĩ lành
mà miệng nói lành
mà làm thân lành,
thì sự yên vui
đi theo người ấy
như bóng thế nào
do hình thế ấy.

dich nghia

1. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.

2. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh, 
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau, 
Như bóng, không rời hình.

Duyen Su:

1. Nếu Con Mắt Ngươi Làm Hại Ngươi, Hãy Móc Bỏ Nó Ði


Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.

Phật dạy Pháp Cú này tại đâu?
- Tại Xá-vệ.
- Cho ai?
- Cho Trưởng lão Cakkhupàla.
Tôi nghe như vầy: Tại Xá-vệ có một Trưởng giả tên là Ðại Phú (Mahà Suvanna). Ông ta rất giàu, có nhiều của cải và đủ trò vui chơi giải trí, nhưng lại chẳng có con.
Ngày nọ trên đường đi tắm trở về nhà, ông trông thấy bên vệ đường một cây rừng thật lớn, tán lá to rộng. Nghĩ rằng đây chắc là chỗ ở của một vị thần đầy uy lực, Trưởng giả ra lệnh cho dọn sạch miếng đất dưới gốc cây, rào tường chung quanh và rải cát bên trong, rồi cho trang hoàng đủ loại cờ xí và nguyện: "Nếu có một đứa con, ta sẽ tạ ơn thần xứng đáng".
Chẳng bao lâu vợ ông mang thai. Bà lập tức báo tin cho chồng. Ông liền tổ chức lễ Bảo thai cho bà. Sau mười tháng bà hạ sinh một bé trai, và ông đặt tên con là Pàla, có nghĩa là người Bảo Trợ, vì nhờ sự bảo vệ và chăm sóc cội cây mới sinh được đứa bé. Ít lâu sau, ông có thêm đứa con nữa, bèn đặt tên là Culla Pàla (Bảo Trợ em), đứa lớn là Mahà Pàla (Bảo Trợ anh). Ðến tuổi trưởng thành ông bà cưới vợ cho hai con. Thời gian sau, cả hai ông bà đều qua đời, để lại cho hai anh em toàn bộ gia sản.
Lúc bấy giờ đức  Phật đang chuyển Pháp Luân. Sau khi du hành từ nơi này đến nơi nọ, Ngài trú tại Tinh Xá Kỳ Viên do Trưởng Giả Cấp Cô Ðộc xây cất, trị gía năm trăm bốn chục triệu đồng.
Suốt thời gian ngụ tại Kỳ Viên , đức Phật dạy về pháp sanh thiên, pháp giải thoát (Ðức Thế Tôn chỉ ở lại một mùa an cư tại ngôi tịnh xá do hai nhánh thân tộc Ngài xây dựng, một nhánh gồm tám vạn gia đình bên ngoại và một nhánh gồm tám vạn gia đình bên nội. Ngài trú tại  Kỳ Viên suốt mười chín hạ, và sáu hạ tại Pubbàràma, một tịnh xá do bà Tỳ-xá-khư, một nữ cư sĩ lỗi lạc xây cất, trị giá hai trăm bảy chục triệu đồng. Do công đức lớn lao của hai gia đình Cấp Cô Ðộc và Tỳ-xá-khư, đức Phật đã an cư gần Xá-vệ trong suốt hai mươi lăm hạ).

Ông Cấp Cô Ðộc và bà Tỳ-xá-khư mỗi ngày đều đặn đi đến Thế Tôn hai lần. Họ không bao giờ đi tay không vì biết rằng các thầy Sa-di trẻ đang chờ họ để bát. Trước ngọ, họ dâng thức ăn loại cứng và loại mềm. Sau ngọ, họ cúng năm thứ dược liệu và tám thức uống. Ngoài ra họ luôn dành sẵn chỗ tại nhà cho hai ngàn Tỳ kheo. Bất cứ vị nào cần thức ăn, nước uống hay thuốc men liền được cung cấp như ý muốn.
Trưởng gỉa Cấp Cô Ðộc không hề thưa hỏi Phật. Người ta nói rằng sở dĩ ông không dám thưa hỏi vì Quá kính mến Phật. Ông nghĩ rằng đức Thế Tôn là một vị Phật cao qúy và là một thái tử phong nhã. Sở dĩ Thế Tôn thuyết pháp cho ai vì nghĩ đó là thí chủ của Ngài. Nếu bây giờ phải thuyết pháp cho ta, Ngài sẽ nhọc mệt thêm. Vì lý do đó, Trưởng giả Cấp Cô Ðộc không hề thưa hỏi Phật. Nhưng khi ông vừa ngồi xuống, đức Phật đã nghĩ: "Trưởng giả này bảo trợ cho Ta khi Ta không cần bảo trợ. Ta đã trải qua bốn a-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp để thành tựu đạo quả. Mái tóc đeo đầy trang sức Ta đã cắt bỏ, đôi mắt Ta đã vứt đi, máu thịt tim Ta cũng nhổ bỏ tận gốc. Con Ta, vợ Ta thân thiết như chính mạng sống, Ta cũng từ bỏ, chỉ vì muốn đem chánh pháp đến cho chúng sanh. Người này bảo trợ cho Ta khi Ta không cần bảo trợ". Rồi đức Phật thuyết một bài pháp.
Lúc ấy có năm mươi triệu trong số bảy mươi triệu cư dân thành Xá-vệ nghe xong liền xin làm đệ tử tại gia của Phật. Còn lại hai mươi triệu chưa tin đạo. Các cư sĩ đệ tử của Phật có hai nhiệm vụ: trước ngọ để bát cho chư Tăng, sau ngọ cầm hương hoa và cùng với tôi tớ mang y phục, thuốc men, thức uống đi đến đức Phật nghe pháp.

Một ngày nọ, Mahà Pàla trông thấy các cư sĩ đi đến tịnh xá với hương hoa trên tay, anh ta bèn hỏi:
- Các vị đi đâu vậy?
Và được trả lời:
- Ði nghe pháp.
- Cho tôi đi với.
Rồi anh ta đi theo họ đến đảnh lễ đức Phật và ngồi bên ngoài vòng pháp hội.
Khi chư Phật thuyết pháp, các Ngài luôn tùy theo căn cơ của thính chúng từng người một, xem người nào thích hợp để quy y, để thọ giới hoặc xuất gia. Ngày hôm ấy, đức Phật để ý đến căn cơ Mahà Pàla và thuyết pháp cho anh ta. Ngài giải thích rành rẽ, theo thứ lớp từng vấn đề về trí tuệ, bố thí, giới luật, sự sanh thiên, nghiệp báo, sự ngu si và uế trược của dục lạc, và về phước lành của hạnh xuất gia.
Gia chủ Mahà Pàla chú tâm lắng nghe. Anh nhận định khi con người từ giã cõi đời sang bên kia thế giới, chẳng có thể đem theo con cái hay tài sản; hơn nữa, cả thân này cũng chẳng đi theo được, vậy sống đời tục gia có lợi gì? Và anh định xuất gia. Vì thế cuối thời pháp, Mahà Pàla đến bên đức Phật xin gia nhập Tăng đoàn.
Ðức Phật hỏi:
- Con còn thân nhân nào không, để việc xuất gia được đúng pháp?
- Bạch Thế Tôn! Con còn một em trai.
- Vậy thì hãy báo tin cho em con.
Mahà Pàla hoan hỷ thưa:
- Xin vâng.
Rồi chào Phật trở về nhà, gọi em đến bảo:
- Này chú! Mọi tài sản trong nhà, động sản và bất động sản, anh giao hết cho chú, hãy bảo quản.
Người em ngạc nhiên hỏi:
- Còn anh thì sao?
- Anh sẽ theo Phật, gia nhập Tăng đoàn.
- Anh nói gì vậy, anh thân yêu? Khi mẹ mất anh chăm lo cho em như mẹ, đến cha mất anh lại thay cha. Nhà anh đầy của cải, chắc chắn anh sẽ làm được việc thiện dù sống đời tại gia. Xin anh đừng xuất gia.
- Này chú, sau khi nghe Phật thuyết pháp, anh không muốn sống đời tại gia nữa. Ðức Phật đã giảng rất hay trong phần đầu, phần giữa và phần cuối. Ngài đã nêu lên một cách chính xác và đúng đắn ba tính chất của các pháp: vô thường, khổ và vô ngã. Anh không thể hành trì trọn vẹn giáo pháp nếu còn bận bịu việc nhà. Anh phải xuất gia em à!
- Anh ơi! Anh còn trẻ lắm, để lúc già hãy đi tu.
- Ðợi đến già để thành lão khọm à! Tay chân lụm khụm, không làm gì được theo ý mình, lại thêm con cháu đùm đề. Không, anh không thể nghe lời chú được. Anh sẽ làm tròn bổn phận Tỳ-kheo.

Tuổi già tay yếu run chân
Tu sao được nữa khi thân mỏi mòn?
Anh sẽ đi tu, dù chú cản trở cách gì.
Mặc người em than khóc, Mahà Pàla đi đến gặp Phật và xin xuất gia vào Tăng đoàn. Ðược thu nhận và tu học, Mahà Pàla trải qua năm mùa hạ với thầy Tế độ và Giáo thọ. Mãn hạ thứ năm và làm lễ giải hạ xong, thấy đến chỗ Phật, đảnh lễ và thưa hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Nương theo Thế Tôn con có bao nhiêu bổn phận tu tập phải thọ trì?
- Này Tỳ-kheo! Chỉ có hai là Pháp học và Pháp thiền.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Pháp học? Và thế nào là Pháp thiền?
- Pháp học là hiểu biết Phật ngôn tùy theo căn cơ mỗi người, phải thông suốt một hoặc hai bộ A Hàm, hay toàn bộ Tam Tạng kinh điển, thuộc lòng, đọc tụng và giảng dạy. Còn Pháp thiền sẽ dẫn đến quả vị A-la-hán. Thiền định đòi hỏi một đời sống đạm bạc, ưa thích ở nơi vắng, luôn chuyên niệm về lão và tử, và khai triển Minh sát tuệ bằng sự nỗ lực bền bỉ.
- Bạch Thế Tôn! Vì con đã lớn tuổi mới xuất gia, con không thể làm tròn bổn phận đối với Pháp học, nhưng con có thể làm tròn bổn phận đối với Pháp thiền. Xin dạy cho con thiền định.
Phật dạy cho thầy pháp tu dẫn đến quả vị A-la-hán. Thầy đảnh lễ đức Phật và tìm được sáu mươi vị Tỳ-kheo cùng đi với mình. Thầy đi khoảng hai mươi dặm (tám mươi cây số), đến một làng rộng lớn gần biên giới, và cả đoàn vào làng khất thực. Dân làng thấy các vị oai nghi chỉnh tề, làm tròn bổn phận tăng sĩ và lại dễ thân cận nên sanh lòng quý kính. Họ mời các thầy ngồi, dâng những thức ăn ngon.
Rồi họ hỏi:
- Thưa chư Tôn giả, các vị đi đâu?
- Này chư thiên tín, chúng ta đi đến một chỗ ẩn cư thích hợp.
Dân làng khôn ngoan tự hiểu rằng những vị Tỳ-kheo đáng kính đang tìm chỗ an cư trong mùa hạ. Họ thỉnh cầu:
- Nếu chư Tôn giả bằng lòng ở đây suốt ba tháng hạ, chúng con xin quy y và thọ giới.
Nghĩ rằng nhờ những thí chủ này trợ giúp để tu ra khỏi sanh tử luân hồi, các thầy ưng thuận ở lại. Dân làng dựng ngay một tịnh xá, xây khu vực ban đêm và khu vực ban ngày, dâng cúng lên chư Tăng. Các Tỳ-kheo chỉ có việc đều đặn vào làng khất thực. Có một y sĩ phát tâm đến tịnh xá chữa bệnh, ông đã trình lên chư Tăng nguyện vọng của mình:
- Chư Tôn giả! Chỗ nào đông người đều không tránh khỏi bệnh tật. Nếu có người bệnh, xin nhắn tôi đến chữa trị.
Ngày đầu hạ, Trưởng lão Mahà Pàla đã gọi tất cả Tỳ-kheo lại hỏi:
- Các huynh đệ, suốt ba tháng hạ các vị sẽ tu trong mấy oai nghi?
- Trong bốn oai nghi, bạch Ðại đức.
- Nhưng có thích hợp không, các huynh đệ?
Chúng ta phải thật chánh niệm, chính vì đức Phật chỉ dạy Pháp thiền mà chúng ta đến đây hành trì. Sở dĩ chúng ta được chư Phật gia hộ chẳng do nhờ dối trá hai mặt, mà chính do hạnh tinh tấn tu tập. Bốn thứ khổ sanh, lão, bệnh, tử đang chờ người giải đải tán tâm, đó là cảnh giới họ ra vào quen thuộc như nhà riêng của mình. Vì thế, các huynh đệ hãy chánh niệm.
- Còn Ngài, thưa Ðại đức?
- Tôi chỉ dùng ba oai nghi. Tôi sẽ không đặt lưng nằm.
- Tốt lắm! Thưa Ðại đức, hãy chánh niệm!
Sau tháng thứ nhất Trưởng lão Mahà Pàla, người tự nguyện không ngủ, bắt đầu thấy nhức mắt. Nước mắt chảy ra từ mắt thầy giống như từ chiếc bình bể. Suốt đêm dài, thầy dốc hết thân tâm ngồi thiền, và chỉ đến sáng thầy mới vào liêu ngồi nghỉ. Ðến giờ đi bát, chư Tăng đến chỗ Trưởng lão thưa:
- Bạch Trưởng lão! Ðã đến giờ đi khất thực.
- Tốt lắm, huynh đệ, hãy lấy y và bát.
Bảo họ lấy y bát rồi, chính thầy cũng lên đường. Các Tỳ-kheo thấy thầy chảy nước mắt, hỏi:
- Có việc gì vậy, thưa Ðại đức?
- Gió làm xốn mắt tôi.
- Sao ta chẳng mời y sĩ, thưa Ðại đức? Chúng ta sẽ nhắn ông ta đến.
- Tốt lắm.
Các Tỳ-kheo báo tin cho y sĩ. Ông chế một thứ thuốc gởi đến. Trưởng lão thoa thuốc mỡ vào mũi và vẫn ngồi như thường lệ. Rồi Ngài vào làng. Y sĩ gặp Ngài hỏi thăm:
- Thưa Tôn giả, con nghe nói gió làm Ngài bị đau mắt?
- Ðúng thế, thiện tín ạ.
- Thưa Tôn giả, Ngài có thoa vào mũi thuốc con đã chế và gởi đến không?
- Có, thiện tín ạ.
- Bây giờ Tôn giả thấy thế nào?
- Vẫn đau nhức như trước.
Y sĩ bán tín bán nghi, thuốc mình gởi đến chỉ thoa một lần là khỏi bệnh, vì sao Tôn giả không hết đau? Ông bèn hỏi tiếp:
- Khi thoa thuốc Ngài ngồi hay nằm?
Trưởng lão im lặng. Mặc cho y sĩ hỏi đôi ba phen, Ngài vẫn không nói một lời. Y sĩ không biết làm sao để giải quyết, chỉ còn cách chào Ngài và đến tịnh xá xem xét chỗ ở.
Liêu của Trưởng lão chỉ có lối kinh hành và một chỗ ngồi, không có chỗ nằm. Y sĩ thắc mắc:
- Thưa Tôn giả, khi thoa thuốc Ngài đã ngồi hay nằm?
Trưởng lão vẫn im lặng.
- Thưa Tôn giả, xin Ngài đừng làm vậy. Việc tu tập chỉ có thể tiến hành khi nào thân thể được chăm sóc cẩn thận. Ngài có nằm khi thoa thuốc không?
Y sĩ hỏi đôi ba lần, Trưởng lão mới trả lời:
- Hãy về đi, Y sĩ. Tôi sẽ hội ý lại và quyết định việc này.
Trưởng lão không có ai thân thích ở đó cả, vậy thì Ngài hội ý với ai? Ngài chỉ bàn với chính mình: "Này Pàlita, thầy quí con mắt hay quí Phật đạo? Trong vòng luân hồi không manh mối, biết bao lần thầy không được sáng mắt. Trong vô số muôn ngàn đức Phật đã ra đời, thầy đã không gặp được một vị nào. Giờ đây trong mùa hạ này, thầy đã quyết không nằm suốt ba tháng. Vậy cứ để cho đôi mắt bị hư. Chỉ lo giữ giới luật, đừng giữ con mắt".
Và để khiển trách thân, Ngài đọc bài kệ sau:
Mắt tai nay đã hỏng rồi,
Cả thân này nữa cũng thôi không còn.
Ðó là chuyện mỏi mòn thân ấy,
Pàlita, sao vẫn tán tâm?
Mắt tai này đã hết mong,
Cả thân này nữa chẳng trông lâu dài.
Ðó là chuyện hoại hư thân ấy,
Pàlita, sao vẫn tán tâm?
Mắt tai nay đã tiêu tan,
Cả thân này nữa tan hoang còn nào!
Ðó là chuyện hư hao thân ấy,
Pàlita, sao vẫn tán tâm?
Tự khiển trách mình với ba câu kệ xong, Trưởng lão thoa thuốc lên mũi, lại tiếp tục ngồi như trước, rồi Ngài vào làng khất thực. Y sĩ trông thấy hỏi:
- Thưa Tôn giả, Ngài có thoa thuốc vào mũi?
- Có.
- Ngài thấy thế nào?
- Vẫn đau như trước.
- Thưa Tôn giả, Ngài có ngồi khi thoa thuốc hay nằm xuống?
Trưởng lão im lặng. Y sĩ hỏi lại mấy lần, Trưởng lão vẫn không nói một lời. Y sĩ bảo:
- Ngài không chịu làm điều phải làm để lành bệnh. Vì vậy Ngài không nên xin thuốc, và tôi cũng sẽ không chế thuốc cho Ngài. Tôi không còn cách nào hơn.
Bị y sĩ từ chối chữa bệnh, Trưởng lão trở về tịnh xá, tự dặn dò: "Tỳ-kheo, dầu cho thầy bị y sĩ từ bỏ, chớ từ bỏ tư thế ngồi của mình".
Như con bệnh nan y,
Y sĩ thôi chữa trị,
Chắc chắn gặp tử thần,
Pàlita, sao còn tán tâm?
Tự khiển trách mình với bài kệ trên, Trưởng lão lại tiếp tục thiền định. Vào cuối đêm đôi mắt Ngài mù hẳn, các lậu đồng thời hết sạch. Ngài chứng A-la-hán an trú trong an lạc của Minh sát tuệ. Rồi Ngài vào liêu ngồi nghỉ. Ðến giờ khất thực, các Tỳ-kheo đến bên Trưởng lão thưa:
- Bạch Tôn giả, đã đến giờ chúng ta đi bát.
- Ðến giờ rồi ư, chư hiền hữu?
- Thưa vâng.
- Thế thì các thầy hãy đi.
- Còn Ngài, thưa Tôn giả?
- Mắt tôi đã mù.
Họ nhìn vào mắt Ngài và mắt họ đẫm lệ:
- Ðừng lo ngại, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Họ an ủi Trưởng lão, và sau khi xong bổn phận hành thiền, họ vào làng khất thực.
Không thấy Trưởng lão, dân làng hỏi thăm:
- Bạch quý thầy, Tôn giả Trưởng lão của chúng con đâu?
Khi rõ sự việc, họ gởi cháo về cúng dường Ngài. Sau đó, từng người một đem thức ăn đến đảnh lễ Trưởng lão, lăn mình dưới chân Ngài, không ngớt than khóc. Rồi họ an ủi Ngài:
- Thưa Tôn giả, xin đừng lo lắng, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Từ đó, dân làng đều đặn gởi cháo đến tịnh xá. Trưởng lão thường răn nhắc sáu mươi Tỳ-kheo, và các Tỳ-kheo đều tuân hành theo lời Ngài, nghiêm chỉnh đến nỗi vào ngày giải hạ tất cả đều chứng A-la-hán và đắc thần thông.
Cuối mùa an cư, vì muốn gặp Phật, các Tỳ-kheo thưa với Trưởng lão xin đi. Trưởng lão không tránh khỏi đăm chiêu: "Ta nay sức yếu, trên đường về lại đi qua khu rừng có nhiều ma quỷ. Nếu ta cùng đi, các thầy sẽ nhọc công và không thể khất thực. Ta sẽ để họ đi trước".
Và Ngài bảo:
- Các thầy hãy đi trước.
Các Tỳ-kheo thắc mắc:
- Nhưng còn Tôn giả?
- Tôi ốm yếu, đường đi phải băng qua khu rừng có nhiều ma quỷ, nếu tôi cùng đi các thầy sẽ nhọc công. Các thầy hãy đi trước.
- Không được, thưa Tôn giả. Chúng con chỉ đi cùng Ngài.
- Xin các thầy đừng làm thế, tôi chẳng vui lòng. Nếu em tôi gặp các thầy và hỏi thăm tôi, hãy bảo là tôi mù mắt, nó sẽ gởi người đến và dẫn tôi về. Hãy nhân danh tôi chào mừng đấng Thập Lực và tám mươi vị Ðại Trưởng lão.
Nói xong, Tôn giả bảo họ ra đi. Bắt buộc phải lên đường, các Tỳ-kheo đành xin phép Trưởng lão vào làng khất thực rồi lên đường.
Dân làng mời ngồi, dâng thức ăn, năn nỉ ở lại; nhưng biết các Tỳ-kheo phải về gặp Phật, họ đành khóc lóc tiễn đưa. Du hành một thời gian, các thầy đến Kỳ Viên và nhân danh Trưởng lão chào mừng Ðạo sư cùng tám mươi vị Ðại Trưởng lão. Xong các thầy đi khất thực, qua nhà gia chủ em của Trưởng lão. Gia chủ nhận ra các thầy ngay, thân mật đón tiếp, mời ngồi và hỏi thăm Trưởng lão.
Các Tỳ-kheo kể lại những gì đã xảy ra. Người em lăn mình trên đất, than khóc mếu máo, không biết phải làm sao bây giờ.
Các Tỳ-kheo vỗ về:
- Trưởng lão muốn có ai đến đưa Ngài về.
- Thưa, đây là Pàlita, con của chị con. Xin gởi nó đi!.
- Ðể nó đi không ổn vì đường nhiều nguy hiểm. Nếu cho nó xuất gia thì an toàn hơn.
Người em bằng lòng.
Thế là các thầy làm lễ xuất gia cho chàng trai, dạy anh ta cách thức đắp y v.v.. trong vòng hai tuần, rồi chỉ đường cho anh ta đi.
Băng qua nhiều làng mạc, một hôm thầy Sa-di trẻ gặp một cụ già tại cổng làng đó và hỏi thăm:
- Chào cụ, cụ có biết một tu viện ẩn cư nào gần đây không?
- Thưa Tôn giả, có.
- Ai sống ở đó?
- Có một Trưởng lão tên Pàlita.
- Hãy chỉ cho tôi đường đến đó.
- Tôn giả là ai?
- Tôi là con của em gái vị ấy.
Cụ già liền dẫn thầy đến nơi ẩn cư. Thầy tới đảnh lễ Trưởng lão, và trong hai tuần làm đủ bổn phận từ việc lớn đến việc nhỏ đối với Trưởng lão, chăm sóc Ngài thật tận tụy. Rồi thầy đề nghị với Trưởng lão:
- Thưa Tôn giả, cậu của con mong được gặp Ngài.
Chúng ta hãy trở về.
- Tốt lắm, hãy nắm lấy gậy của ta.
Và như thế tay không rời gậy, cả hai người một già một trẻ đi vào làng. Dân làng tìm hết cách thuyết phục Trưởng lão ở lại nhưng vô hiệu, họ đành khóc lóc đưa đi một đoạn đường. Họ đi đến ngôi làng kế cận ở ven rừng tên là Katthanagara, và lần bước ra khỏi làng.
Bỗng từ xa cất tiếng hát của một cô gái đang gom củi. Thầy Sa-di chợt cảm thấy yêu mến ngay tiếng hát trong trẻo (Ðức Thế Tôn đã từng dạy: "Này các Tỳ-kheo! Chưa từng có âm thanh nào khác thâu nhiếp con tim người nam bằng tiếng người nữ"). Và quá xao xuyến thầy liền buông đầu gậy ra thưa với Trưởng lão:
- Thưa Tôn giả, chờ con một lát. Con bận một chút việc.
Nói xong thầy tất tả đi về hướng cô gái. Trông thấy thầy, nàng ngừng hát và thầy phạm giới tà hạnh với cô gái. Trưởng lão đợi thầy Sa-di hồi lâu chưa thấy trở lại, đoán ngay có điều bất thường, có tiếng hát phụ nữ và chú Sa-di lại đi lâu quá, chắc đã phạm giới rồi.
Thầy Sa-di sau đó trở về bên Trưởng lão, hối hả giục Ngài tiếp tục lên đường:
- Thôi ta đi, thưa Tôn giả.
Trưởng lão nghiêm giọng:
- Này Sa-di, con đã phạm tội phải không?
Thầy im lặng, và dù được hỏi lần nữa thầy vẫn nín khe. Trưởng lão răn tiếp:
- Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
Thầy Sa-di quá ăn năn, cởi chiếc y vàng, khoác áo thế tục, cúi đầu nhận lỗi:
- Thưa Tôn giả, trước đây con là thầy tu, nay trở lại làm cư sĩ. Con đi tu chẳng phải do tín tâm, chỉ vì sợ những bất trắc dọc đường. Giờ thì chúng ta đi thôi.
Trưởng lão vẫn không đổi ý:
- Một kẻ xấu ác, dù là bậc xuất gia hay tại gia vẫn là kẻ xấu ác. Khi là Sa-di chú không giữ được phạm hạnh, thì liệu chú có là người tốt khi làm cư sĩ không ? Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
-Tôn giả ! Ðường đầy ma qủy, Ngài lại mù, làm sao Ngài lại ở đây được ?
- Chú đừng lo việc ấy. Ta có nằm chết ở đây hay đi đâu chăng nữa, cũng không có gì quan trọng. Ta không đi với chú.
Nói xong, Trưởng lão ngâm đoạn kệ sau: 
Ôi ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng nằm xuống chẳng đi, không màng.
Ôi ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng phải chết, chẳng đi, không màng.
Chú nghe những lời này, hối hận, nghẹn ngào, cất tiếng than:
- Con đã phạm một tội ghê gớm, một lỗi lầm kinh khủng.
Rồi khóc lóc vặn vẹo đôi tay, chú lao vào rừng mất dạng.
Ðức hạnh của Trưởng lão làm cho ngai vàng Ðế Thích dài sáu mươi dặm, rộng năm mươi dặm, dày mười lăm dặm, rực rỡ màu hoa hồng đỏ, tự động hạ thấp khi Ðế Thích ngồi, vương cao khi Ðế Thích đứng, bỗng nhiên nóng bỏng lên. Ðế Thích giật mình không hiểu ai có thể hắt ngài ra khỏi ngai như thế này, và quan sát thế gian, với thiên Nhản Ngài thấy Trưởng lão. Người xưa kể rằng:
Ðế Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla ghét tội lỗi,
Làm thanh tịnh tâm thân.
Ðế Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla sùng giới luật,
An lạc trong đạo tâm.
Ðế Thích tự nhủ: "Nếu ta không đến giúp một Trưởng lão ghê tởm tội lỗi và tôn sùng giới luật như vậy, thì đầu ta sẽ bể làm bảy mảnh. Ta sẽ đến giúp Ngài".
Vậy là:
Ðế Thích có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Ðến ngay trong khoảnh khắc,
Bên Cakkhupàla.
Và Ðế Thích bay đến Trưởng lão. Khi đến gần, Ngài kéo lê chân.. Trưởng lão bèn hỏi:
- Ai đó?
- Tôi, một bộ hành.
- Này thiện tín, ngươi đi đâu vậy?
- Ðến Xá-vệ, thưa Tôn giả.
- Hãy tiếp tục lộ trình.
- Nhưng thưa Tôn giả, Ngài đi đâu?
- Tôi cũng đến đó.
- Tốt quá, vậy thì chúng ta cùng đi.
- Này bạn, tôi ốm yếu, đi với tôi bạn sẽ chậm trễ.
- Tôi không có việc gì gấp. Hơn nữa nếu đi với Ngài, tôi sẽ được công đức vì đã làm một trong mười điều thiện. Ta hãy cùng đi, thưa Tôn giả!
Nghĩ rằng đây là một người ngoan đạo, Trưởng lão bằng lòng:
- Tốt lắm, hãy nắm lấy đầu gậy của tôi.
Ðế Thích y lời và làm phép thâu ngắn đoạn đường để họ đến Kỳ Viên kịp trong chiều ấy. Và rồi tiếng kèn, trống và những nhạc cụ khác nổi lên bên tai, Trưởng lão ngạc nhiên:
- Tiếng ấy ở đâu?
- Ở Xá-vệ.
- Này thiện tín, lần trước tôi đi lâu lắm mới đến, sao kỳ này nhanh vậy?
- Thưa Tôn giả, tôi biết một lối đi tắt.
Trưởng lão hiểu ngay đây không phải là người thường mà là một vị trời.
Phạm thiên có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Thâu ngắn đi khoảng cách,
Ðến Xá-vệ thật nhanh.
Rồi Ðế Thích dẫn Trưởng lão đến một túp lều bằng lá và cỏ, nơi người em của Trưởng lão dựng riêng cho anh mình ở tạm, để Trưởng lão ngồi trên giường, và hóa thành anh bạn đến thăm người em. Anh bạn này kêu lên khi đến nhà:
- Bạn Pàla!
Pàla chào bạn:
- Gì vậy bạn?
- Anh có biết Trưởng lão đã về chưa?
- Chưa! Ngài về thật sao?
- Quả vậy, tôi vừa từ nơi ẩn cư về, thấy Trưởng lão đang ngồi trong lều của anh.
Nói xong anh bạn ra đi.
Vị gia chủ bèn đi đến lều cỏ. Vừa trông thấy Trưởng lão, anh gieo mình xuống chân Ngài, lăn trên đất khóc lóc:
- Con biết mà, Trưởng lão! Vì thế con không muốn để người đi tu.
Hàn huyên thăm hỏi xong, gia chủ bèn trả tự do cho hai nô lệ, cho chúng xuất gia làm đệ tử Trưởng lão để trông nom Ngài. Anh dặn dò:
- Nhớ về làng lấy cháo và thức ăn, chăm lo săn sóc Trưởng lão.
Hai tân Sa-di chăm sóc Trưởng lão hết sức tận tụy, làm đủ các bổn phận từ việc lớn đến việc nhỏ.
Ngày nọ, một nhóm thầy Tỳ-kheo ở xứ khác đến kính viếng Phật. Sau khi lễ Phật và thăm tám mươi Ðại Trưởng lão, họ đi tham quan tịnh xá. Ðến thất của Trưởng lão Cakkhupàlahọ bàn nhau đến vấn an Ngài. Chiều hôm đó họ định vào thăm, nhưng một cơn bão dữ dội nổi lên, họ đành quay về và hẹn sáng hôm sau trở lại. Cơn mưa lớn kéo dài suốt canh một, đến canh hai thì dứt. Trưởng lão, một con người giàu nghị lực đã quen kinh hành, lần xuống hàng hiên vào canh năm, và vô tình giẫm chết rất nhiều côn trùng bò lổn ngổn trên nền đất ẩm. Các thầy Tỳ-kheo ngụ tại đó không quét dọn sớm, nên khi các thầy Tỳ-kheo ở xa đến thăm Trưởng lão, thấy đủ loại côn trùng nằm chết rải rác ngoài hàng hiên. Họ kinh ngạc lên tiếng:
- Ai đã bước đi trên lối này?
Và được trả lời:
- Thưa Tôn giả, Thầy chúng tôi.
Họ bực bội nói:
- Xem một Tỳ-kheo kìa! Khi ông ấy sáng mắt thì nằm ngủ và không tạo tội. Còn bây giờ mù mắt lại nghĩ: "Tôi sẽ kinh hành". Và đã giết chừng ấy côn trùng. Ông ấy nghĩ mình làm đúng, nhưng thật chẳng đúng tí nào.
Rồi họ bỏ đi và bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trưởng lão Cakkhupàla nghĩ "Tôi sẽ kinh hành", và đã giết hại nhiều côn trùng.
Thế Tôn gạn hỏi lại:
- Nhưng các ông có thấy ông ấy giết không?
- Thưa không thấy.
- Thực sự các ông không thấy ông ấy giết, cũng vậy, ông ấy không thấy côn trùng. Này Tỳ-kheo! Người giải thoát các lậu hoặc, không còn ý sát sanh.
- Bạch Thế Tôn, vị ấy chắc chứng A-la-hán, vậy do đâu mà bị mù?
- Này các Tỳ-kheo, đó là vì lỗi lầm trong một kiếp quá khứ.
- Sao thế, bạch Thế Tôn, vị ấy đã làm gì?
- Các ông hãy lắng nghe!
Chuyện quá khứ
1-A. Người Ðàn Bà Và Ông Thầy Thuốc Ðộc Ác.
Thuở xưa, khi vua Kàsi lên ngôi ở Ba-la-nại, có một thầy thuốc đi dạo xóm làng chữa bệnh. Gặp một người đàn bà đau mắt, ông hỏi:
- Bà sao vậy?
- Tôi không thấy rõ.
- Tôi sẽ chữa cho bà.
- Xin thầy làm ơn chữa giùm.
- Bà sẽ trả công cho tôi thế nào?
- Nếu thầy chữa được cho tôi mắt sáng và khỏe mạnh lại như xưa, tôi và luôn cả con trai con gái tôi sẽ hầu hạ thầy.
- Tốt lắm.
Rồi ông kê toa cho thuốc. Chỉ sau một lần dùng thuốc, đôi mắt của người đàn bà sáng lại. Hạnh phúc vừa đến nhưng lại kèm theo nỗi lo âu mãi lởn vởn trong đầu: "Mình hứa làm nô lệ cho ông thầy, cả các con mình cũng phải làm. Nhưng xem ra lão ấy chẳng tử tế đâu. Chà! Làm sao bây giờ đây? Phải tìm cách để gạt lão mới được". Kịp đến lúc thầy thuốc trở lại hỏi thăm bệnh tình, bà làm ra vẻ khổ sở:
- Trước đây mắt tôi đau ít, nay lại đau dữ dội hơn bao giờ.
Ông thầy đoán ngay là bà ta muốn lừa mình để quỵt tiền công chữa bệnh. Ông tức giận lầm bầm: "Ðược rồi, ta chẳng cần mụ trả công, ta sẽ cho mụ mù luôn". Và ông bỏ đi ngay không nói một lời, trước cặp mắt ngơ ngác của người đàn bà thất hứa.
Ông thầy thuốc về nhà, kể lại cho bà vợ nghe cho hả tức. Vợ ông lặng thinh, còn ông thì tức tốc bào chế một thứ thuốc mỡ khác, mang đến cho người đàn bà và dặn thoa vào mắt. Người đàn bà làm theo chẳng chút nghi ngờ và ánh sáng đôi mắt vụt tắt.
Ông thầy thuốc đó chính là Cakkhupàla.
(Hết Chuyện Quá Khứ)
- Này các Tỳ-kheo! Ðệ tử ta làm ác nên bị ác nghiệp theo đuổi mãi mãi, vì việc ác đi theo người làm ác như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe.
Kể chuyện xong, đấng Pháp Vương, như một vị vua đóng dấu ấn bằng con triện hoàng gia lên sắc dụ đã được niêm phong, tuyên đọc bài kệ sau:
(1) Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.


2. Khóc Ðòi Những Chuyện Trên Trời

Pháp cú thứ hai cũng bắt đầu bằng câu:
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình.
Do Phật dạy tại thành Xá-vệ, từ câu chuyện Matthakunddali.
Tôi nghe như vầy: Tại Xá-vệ có một Bà-la-môn tên là Adinnapubbaka, có nghĩa là "không cho", vì ông ta không hề cho ai vật gì. Ông có một đứa con trai duy nhất hết sức cưng quí. Ông muốn cho con một món đồ trang sức, nhưng biết rằng hễ giao thợ bạc chạm trổ thì phải trả tiền công, nên ông tự tay đập mỏng miếng vàng, gò thành một đôi hoa tai sáng bóng đeo cho con. Do đây mà con ông có tên là Matthakundali, nghĩa là Hoa Tai Sáng Bóng.
Lên mười sáu tuổi, con ông bị bệnh vàng da. Bà mẹ trông thấy nóng ruột, hối ông mời thầy thuốc đến chữa bệnh. Tuy thương con ông vẫn lừng khừng, không muốn đi, nên tìm cách thối thác với bà vợ:
- Bà à! Nếu gọi thầy thuốc đến, tôi phải trả công bằng lúa gạo, kho lẫm sẽ hao hụt. Bà sao không để ý đến việc bảo quản tài sản cho tôi chút nào!
Bà mẹ vẫn một mực lo lắng cho con:
- Vậy thì phải làm sao? Ông phải tính sao cho con tôi chớ?
- Yên chí! Tôi sẽ sắp xếp sao cho chẳng tốn xu nào.
Thế là ông đi đến từng thầy thuốc, tìm cách hỏi đon hỏi ren cho ra phương thuốc trị bệnh cho con ông:
- Này ông anh, nếu gặp một người bị bệnh như vầy.. như vầy..., thường thì ông trị liệu ra sao, cho uống thuốc gì?
Họ liền kể ra các thứ vỏ cây, tên cây, tên khác.. Thế là ông đi kiếm đủ thứ vỏ cây, lá rừng.. mang về sao chế thuốc cho con. Nhưng dầu làm hết cách, bệnh trạng đứa con càng ngày càng tệ. Cuối cùng hết phương cứu chữa, ông mời hẳn một thầy thuốc đến. Nhìn thấy chàng trai quá yếu, thầy thuốc khéo léo từ chối:
- Tôi đang bận một việc quan trọng, xin mời một vị khác đến chữa trị. Tôi rất tiếc.
Và ông vội vàng rời khỏi nhà.
Thấy con mình gần chết, tuy có đau buồn nhưng vẫn không quên tính keo kiệt, bo bo giữ của, ông ra lệnh mang con ra khỏi nhà, đặt nằm trên thềm, vì sợ những người đến thăm con mình sẽ dòm ngó luôn tài sản trong nhà.
Hôm ấy, từ sáng sớm, đức Thế Tôn đã xuất định Ðại Bi, và để tìm xem những ai có lập nguyện trong đời chư Phật trước, những người căn lành tròn đầy, những đạo hữu có thể xuất gia, Ngài quán sát với Phật nhãn mở rộng đến mười phương thế giới, và thấy Matthakundali đang nằm hấp hối ngoài thềm nhà. Ðấng Ðạo sư biết ngay là anh ta vừa từ trong nhà được khiêng ra đặt nằm đó, và cũng biết rằng anh ta có nhân duyên với Phật, đặt niềm tin nơi Phật, sẽ chết và sẽ tái sinh lên cõi trời thứ ba mươi ba, sống trong lâu đài bằng vàng, có một ngàn thiên nữ theo hầu. Bà-la-môn sẽ thiêu xác con, rồi đi quanh bãi thiêu khóc lóc. Vị trời sẽ tự ngắm mình thân cao ba dặm, được trang điểm với sáu mươi xe đầy ắp đồ trang sức, có ngàn thiên nữ vây quanh. Vị ấy thắc mắc không biết do công đức gì mà được quả báo thù thắng như thế, và rồi vị ấy biết là do tín tâm. Rồi vị ấy thấy cha mình trước đây không chịu lo thuốc thang cho mình, nay đang đi trong bãi thiêu than khóc. Vị ấy liền quyết định sẽ làm cho cha thay đổi tâm tánh.
Vị trời xúc động vì cha, sẽ hóa hình thành Matthakundali đi đến bãi thiêu, gieo mình xuống đất khóc lóc. Ông Bà-la-môn sẽ hỏi:
- Người là ai?
Vị trời sẽ trả lời:
- Là Matthakundali, con của cha.
- Con tái sinh ở đâu?
- Ở tầng trời thứ ba mươi ba.
Ông Bà-la-môn sẽ hỏi tiếp:
- Con làm công đức gì mà được?
- Nhờ tin Phật.
Người Bà-la-môn chưa tin hẳn, sẽ hỏi lại Thế Tôn:
- Có ai do tin Phật mà được sanh thiên không?
Thế Tôn sẽ đáp:
- Chẳng phải có hằng trăm, hằng ngàn hay hằng trăm ngàn mà vô số người đều được.
Rồi Thế Tôn sẽ đọc một đoạn Pháp Cú. Cuối đoạn Pháp Cú sẽ có tám vạn bốn ngàn người được Pháp nhãn thanh tịnh. Matthakundali sẽ chứng quả Dự lưu, cả Bà-la-môn Adinnapubbaka cũng chứng quả ấy. Như vậy nhờ chàng trai ưu tú này mà nhiều người được Pháp nhãn thanh tịnh.
Ðức Phật biết rõ như đã kể trên, nên hôm sau vệ sinh xong, Ngài đi giữa một đoàn Tỳ-kheo vào thành Xa-vệ khất thực, và trên đường đi Phật ghé nhà người Bà-la-môn. Lúc ấy Matthakundali đang nằm quay mặt vào nhà. Phật biết anh ta không trông thấy Ngài, bèn phóng một luồng hào quang. Chàng trai ngạc nhiên không biết là ánh sáng gì, quay mặt ra định hỏi thì nhìn thấy đức Phật, liền thưa thỉnh:
- Vì ông cha ngu xuẩn nên con không được ân huệ đến với đức Phật tôn quí, cũng không được hầu hạ Ngài, để bát hoặc nghe pháp. Giờ đây tay con cũng không nhúc nhích được, con chẳng làm gì được nữa!.
Nói vậy rồi anh ta đặt trọn lòng tin nơi Phật.
Ðức Ðạo sư hoan hỷ bảo:
- Vậy là đủ!
Và Ngài bước đi.
Khi đức Phật xa dần khỏi tầm mắt, chàng trai tắt thở trong tín tâm. Và như vừa ngủ dậy, chàng tái sinh vào cõi trời, y như Phật đã thấy biết trước. Và khi người Bà-la-môn gặp lại chàng đứng khóc tại bãi thiêu, đã đọc kệ hỏi lý do:
Trang sức sang trọng, bông tai đeo vàng chói,
Mang vòng hoa có khảm gỗ đàn hương,
Vặn bàn tay và khóc lóc thảm thương,
Sao anh khổ giữa rừng sâu như thế?
Chàng trai đáp:
Chiếc xe ngựa quý - thân tôi
Sáng chói bằng vàng nguyên khối,
Bánh xe tìm không ra nổi,
Ðau buồn tôi sẽ chết thôi!
Người Bà-la-môn:
Bánh xe ấy bằng vàng hay bạc?
Bánh đồng hay ngọc quý kim cương?
Nói cho ta nghe thật rõ ràng,
Ta sẽ kiếm cho chàng đầy đủ.
Chàng trai lạ lùng vì thái độ của ông Bà-la-môn, lúc trước con đau thì bỏn xẻn không dám mời thầy thuốc đến chữa trị, nay thấy mình giống con ông ấy thì không ngại tốn kém, hứa kiếm bánh xe cho mình dù bằng vàng, kim cương hay bạc đồng; do đó vì muốn trên chọc ông ta, anh hỏi:
- Cặp bánh ông làm cho xe tôi lớn chừng nào?
- Lớn như ngươi muốn.
- Tôi muốn được mặt trời và mặt trăng làm bánh xe, hãy cho tôi đi!
Chàng bảo Ba-la-môn: 
Ôi!
Trăng trời là cặp sinh đôi giữa ngàn.
Xe tôi nguyên khối bằng vàng,
Có thêm đôi cánh rỡ ràng biết bao!
Người Bà-la-môn trả lời:
Ngươi thật là một kẻ ngu
Ði kiếm thứ ở xa mù
Ta e rằng ngươi sẽ chết
Trời trăng há dễ được ru?
Nhưng chàng trai vặn lại:
- Nhưng ai ngu hơn? Người khóc đòi thứ hiện hữu hay người khóc đòi thứ không hiện hữu?
Trời trăng rạng rỡ đến đi,
Ðây kia đều thấy chẳng khi nào lầm.
Con ông chết chẳng còn trông,
Ai người ngu ngốc khóc mong suốt ngày?
Nghe xong, người Bà-la-môn như bừng tỉnh, thấy chàng trai có lý, ông kết luận:
Trong hai kẻ khóc than thảm thiết
Ta, người ngu khôn xiết chẳng sai
Trăng kia, trẻ mãi khóc đòi
Như ta mong gặp con trai chết rồi.
Hết cả đau buồn nhờ chàng trai giải thích nên người Bà-la-môn khen ngợi:
Tôi như ngọn lửa cháy hừng
Tưới thêm dầu mỡ có ngưng được nào
Người như một trận mưa rào
Tiêu tan sầu khổ lòng nào vui hơn?
Mũi tên đau đáu sầu thương
Nhờ người nhổ bỏ hết vương lụy phiền
Tôi nay vui vẻ an nhiên
Không còn buồn khóc, lời khuyên ghi lòng.
Rồi người Bà-la-môn hỏi:
- Anh là ai?
Là trời, Càn-thát-bà,
Hay Ðế Thích thù thắng?
Là ai? Con của ai?
Làm sao tôi biết đặng?
Chàng trai đáp:
Tôi là người ông khóc than,
Là con ông, đã cháy tan nơi này.
Nhờ làm việc phước, quý thay!
Dứt hơi liền đã sanh ngay cõi trời.
Bây giờ người Bà-la-môn hiểu hết tự sự, nhưng vẫn còn một điểm thắc mắc:
Lúc con còng ở tại nhà
Tí ti cũng chẳng bỏ ra cúng dường
Ăn chay cũng chẳng có luôn
Công đức nào được khiến con lên trời?
Chàng trai trả lời:
Khi tôi nằm ở tại nhà
Ðau nhức vì bệnh trầm kha
May mắn được trông thấy Phật
Người không dục vọng, nghi ngờ
An vui, trí tuệ cao tột.
Lòng tin trong tôi phát ra
Cúi đầu chắp tay quỵ ngưỡng.
Sanh ngay cõi trời ba mươi ba.
Nghe chàng nói, người Bà-la-môn thân tâm tràn ngập vui sướng, nên cất tiếng tán thán:
Kỳ diệu thay! Mầu nhiệm thay!
Kính lễ được quả báo này
Hoan hỷ và đầy tin tưởng
Tôi quy y Phật hôm nay.
Chàng trai đáp từ:
- Hôm nay quy y Phật, Pháp, Tăng với tín tâm, ông hãy lãnh thọ năm giới, giữ gìn nguyên vẹn không sai sót:
* Không được giết sinh mạng kể từ phút này.
* Không lấy của không cho
* Không uống rượu
* Không nói dối
* Chung thủy với vợ mình
Người Bà-la-môn ưng thuận và nói bài kệ:
Này Phạm thiên cao quý,
Người mong tôi an vui,
Người mong tôi hạnh phúc,
Tôi xin vâng lời người.
Người là thầy của tôi,
Tôi xin quy y Phật,
Quy y Pháp và Tăng.
Từ nay thôi giết hại,
Không lấy của không cho,
Không uống rượu, nói dối,
Chung thủy với vợ mình.
Vị trời, trước khi từ giã ngỏ ý khuyên bảo:
- Này Bà-la-môn, ông có nhiều của cải. Hãy đến đức Ðạo sư, cúng dường, nghe pháp và thưa hỏi.
Rồi biến mất.
Người Bà-la-môn lòng vui mừng hớn hở về nhà dặn vợ:
- Bà à! Tôi sẽ thỉnh Sa-môn Cồ-đàm đến nhà và thưa hỏi. Hãy chuẩn bị tiếp đón.
Ðoạn ông ta đi đến tịnh xá. Không lễ Phật và cũng chẳng bày tỏ sự vui mừng được gặp Ngài, ông đứng một bên thưa:
- Ngài Cồ-đàm, xin Ngài và chúng Tăng nhận lời thỉnh thọ trai tại nhà tôi hôm nay.
Ðức Ðạo sư nhận lời. Ông liền nhanh chóng trở về chuẩn bị tại nhà các thức ăn loại cứng và mềm.
Ðức Ðạo sư cùng chúng Tăng đến nhà ông, ngồi nơi chỗ đã dành sẵn, và được ông cung kính hầu hạ. Một đám đông không mời gọi đã tu tập không chậm trễ. Khi một ngoại đạo thỉnh Phật, sẽ có hai hạng người tụ đến. Những kẻ tà kiến sẽ tụ đến với ý nghĩ hôm nay chúng ta sẽ thấy Sa-môn Cồ-đàm bối rối vì những câu hỏi bủa vây. Còn những người chánh kiến sẽ nghĩ hôm nay chúng ta sẽ thấy oai lực và sự thù thắng của đức Phật.
Ðức Thế Tôn thọ thực xong, ông đến bên Ngài, ngồi xuống chỗ thấp và hỏi:
- Ngài Cồ-đàm, có ai được sanh thiên chẳng phải vì cúng dường Ngài hay xưng tán Ngài, cũng chẳng vì nghe pháp hay ăn chay, mà chỉ do một hành vi đầy lòng tín tâm?
- Này Bà-la-môn, tại sao ông hỏi Ta? Chẳng phải con trai ông Matthakundali đã nói cho ông nghe rằng anh ta được sanh thiên nhờ kính tin Ta sao?
- Hồi nào, Ngài Cồ-đàm?
- Chứ chẳng phải hôm nay ông đã đi đến bãi thiêu, và khi đang khóc lóc ông trông thấy một chàng trai cũng vật vã than khóc. Và ông đã chẳng hỏi:
Trang sức sang trọng, bông tai đeo vàng chói
Mang vòng hoa có khảm gỗ đàn hương.
Rồi đức Ðạo sư tiếp tục kể rõ ràng chi tiết cuộc đối đáp giữa hai cha con và trọn vẹn câu chuyện của Matthakundali.
Do đây mà đức Phật nói lên đoạn kinh:
- Này Bà-la-môn, chẳng phải là một trăm hay hai trăm, mà có vô số người do đặt niềm tin nơi Ta mà được sanh thiên.
Thấy đám đông chưa hết nghi ngờ, đấng Ðạo sư ra lệnh:
- Phạm thiên Matthakundali, hãy đến đây với lâu đài của ngươi!
Tức thì Matthakundali hiện ra, thân cao gần một dặm với nhiều đồ trang sức cõi trời. Từ lâu đài bước xuống, Phạm thiên đảnh lễ đức Ðạo sư rồi cung kính đứng một bên.
Ðức Phật hỏi:
- Ngươi đã tạo lập công đức gì mà được phước báo thế này?
Phạm thiên với dung nhan thù thắng.
Chiếu sáng bốn phương như sao trời,
Hỡi vị trời oai lực phi thường,
Sinh thời làm công đức gì thế?
Phật nói kệ xong, Phạm thiên đáp:
- Bạch Thế Tôn, con được phước báo thù thắng này do kính tin Ngài.
- Ngươi được phước báo sanh thiên nhờ kính tin Ta?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Ðám đông chiêm ngưỡng vị trờ và đồng vui mừng thốt lên:
- Oai lực của chư Phật thật là kỳ diệu! Con trai Ba-la-môn Adinnapubbaka được phước báo như thế này chỉ do kính tin Phật, chẳng phải do công đức nào khác!
Ðức Ðạo sư bèn thuyết giảng:
- Tâm ý là gốc của hành động, cả tốt lẫn xấu. Chính tâm ý điều khiển hành động. Bởi vì việc làm do lòng tin theo người đi trong nhơn thiên như bóng theo hình.
Ðấng Pháp Vương, như một vị vua đóng dấu ấn bằng con triện hoàng gia lên sắc dụ đã được niêm phong, tiếp tục đọc Pháp Cú sau:

(2) Ý dẫn đầu các Pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình.