CÁCH HÀNH
TRÌ THIỀN TUỆ ĐỂ CÓ TUỆ PHÁT SINH ?
1. THIỀN
NGỒI - SITTING MEDITATION
Khởi đầu, Bạn
hãy quán xét các động tác của Thân từ lúc tác ý muốn ngồi thiền đến lúc có thể
ngồi xuống. Thật chậm rãi hướng mắt và di chuyển Thân về chỗ ngồi thiền, nhận biết
rõ từng cảm thọ sinh ra do sự di chuyển Thân cho đến khi ngồi yên.
Bạn hãy ngồi
tự nhiên thoải mái. Ngồi theo cách nào cũng được vì mục đích của Thiền Tuệ là
tu tập để phát sinh Tuệ. Thở ra thở vào nhẹ nhàng, chậm rãi, rõ ràng. Đừng cố
gắng thở mạnh vì như thế Bạn tạo ra chú tâm về Sắc. Nó sẽ làm Bạn chóng bị mệt
mỏi. Làm như thế có thể được hiểu như là tàn nhẫn (attakilamthânuyoga) với Thân
của Bạn một cách vô ích. Nếu hơi thở nhẹ quá (soft) Bạn sẽ không nhận biết hơi
thở ra vào ngày lỗ mũi của Bạn, như vậy, Tuệ cũng không phát sinh.
Tập trung chú
ý vào hơi thở nơi chót mũi. Bạn nên nhớ là chú tâm vào hởi thở Ra Vào chớ không
chú tâm vào cái chót mũi, kẻo thành ra Thiền chót mũi. Hơi Thở Ra Vào đếu nhận
biết rõ, sự ra vào, bản chất, cường độ, nhiệt độ..vân vân. Bạn KHÔNG được chú ý
đến cái Thân của Bạn. Lúc đầu Bạn ngồi như thế nào thì Bạn phải sẽ giữ y nguyên
như thế cho đến khi xả thiền. Bạn không
để cho Tâm chạy lăng xăng. Nó chỉ chú ý đến những cảm giác (sensations) xảy ra ngay
nơi cái chót mũi. Bạn phải tăng cường cảnh giác cái Tâm và cương quyết không
thay đổi cách ngồi trong thời gian Thiền.
Có ba loại
Tuệ sẽ xuất hiện trong bất cứ lúc nào trong suốt thời gian hành trì. Cái thứ
nhất là Chánh Tinh Tấn Sammâvâyama. Cái thứ hai là Chánh Niệm Sammâsati. Cái
thứ ba là Chánh Định Samâsamâdhi. Và chỉ
bằng chú tâm liên tục vào hơi thở ra vào Bạn đã và đang phát triển được Ba cái
chi của Bát Chánh Đạo.
Bạn có thể
chú tâm theo dõi dòng hơi thở ra vào một khoảng thòi gian để có được cái Định
trước khi buớc vào Thiền Tuệ. Có người chỉ cần 5 phút là vào Định, nhưng cũng
có người cần đến 45 phút. Tuỳ theo sự tập trung và điều kiện cá nhân cơ thể, cách
sống hằng ngày của Bạn. Những điều kiện này không dính dáng gì đến hoàn cảnh
của bạn là Tu Sĩ hay Cư Sĩ. Bạn phải có
Định trước rồi Tuệ mới có thể phát triển theo Thiền Tuệ. Khi Bạn đã vào Định
được rồi, thì Bạn có thể xả không cần lưu tâm nhiều đến cái sự ra vào của hơi
thở nơi chót mũi nữa.
Khi Bạn bắt
đầu chuyển từ Định (samatha) sang Tuệ (vipassana), Bạn cần thêm hai chi nữa
(piannâ magganga) của Bát Chánh Đạo; đó là Chánh Tư Duy (sammâ sankappa) và Chánh
Kiến (sakkâyaditthi). Bạn chỉ cần quan sát nhận diện những hiện tượng cảm giác
(sensations) xảy ra nơi thân (body) của Bạn (rupa) và lắng nghe, hiểu biết cơ
thể của chính Bạn. Cái này gọi là khandâ.
Bạn cần nỗ lực chớ để lầm lẫn với cái NGÃ (self, I) của Bạn. Không nên
để cho sự chú tâm rời những cái cảm giác, sensations, của thân. Khi Bạn luôn
quấn theo theo sát cái Thân thì những cái gì (sensations), hiện tượng, cảm xúc,
xuất hiện nơi Thân sẽ bị Bạn đều nhận biết và tóm gọn.
Nếu bạn nhận
biết cái đau phát sinh, Bạn chỉ cần theo dõi cái đau đó (pain feelings) với
những câu hỏi như sau:
“Người đang
nhận biết đau đó là Tôi hay chỉ là cái Ngũ Uẩn ?”
“Có cái Tôi
trong cái đau đó không ?, nếu có tại sao nó không bị Tôi ngưng không cho đau
nữa ?”
“Tôi có thể
nói rằng chỉ có cái Khandâ đang báo cho Tôi biết về tính chất của Tôi chăng ?”
Khi Bạn nhận
biết và hiểu rõ rằng Không có cái TÔI (I, Me) trong cái đau mà Bạn cảm nhận thì
Bạn đã từ từ triệt tiêu cái chấp Ngã (atta) hay nói đúng hơn là Chánh Kiến (sakkâyaditthi).
Thế là Bạn đã thực nghiệm và thẩm thấu rõ bản chất
của cái Ngã (anatta).
Như thế, bạn
có thể tự tin rằng khi cái Ngã bị tiêu diệt thì cánh cửa ác đạo (apâya) đã bị
đóng lại. Cánh cửa Niết Bàn (nirvana) sẵn sàng mở ra chờ Bạn bước vào.
Chớ nên quá vội
tự
tin và ngưng ở đây. Hãy tự hỏi những câu như sau:
“Cái đau này
xảy ra như thế nào? bằng cách nào ?”
“Cái cảm giác đau (pain sensations) không thay đổi ?”
“Cái cảm giác đau (pain sensations) không thay đổi ?”
Bằng như thế,
bạn sẽ khám phá và chứng nghiệm rằng các cảm thọ đau này luôn thay đổi. Phần
đầu của nó không giống phần sau. Khi Bạn chứng nghiệm được sự Sinh và Diệt của
các hiện tượng trên cơ thể của chính Bạn thì xem như Bạn đang bắt đầu tiến vào
Thiền Tuệ (vipassana) và Tuệ Tri bắt đầu phát sinh tự nhiên.
Cuối cùng thì
chẳng còn cái gì cho Bạn quán xét nơi cơ thể nữa vì chúng tự biến mất ngay khi
Bạn nhận biết chúng nó. Bạn lại phải quay lại quán chiếu cái hơi thở ra vào nơi
chót mũi của Bạn.
Trong khi Bạn
nhận biết các hiện tượng xảy ra trên cơ thể của chính Bạn, thì Bạn cũng nhận
biết sự Diệt (biến mất) của chúng nó. Nếu Bạn nhận biết sự Diệt của chúng nó
thì Bạn đã trừ bỏ sassataditthi. Nếu Bạn nhận biết sự Sanh của chúng thì Bạn đã
trừ bỏ ucchedaditthi. Và cứ như thế Bạn sẽ trừ bỏ Tà Kiến về Thân (tức là Thân
Kiến). Khi Bạn quán chiếu một chi của
Ngũ Uẩn thì bốn chi khác cũng xuất hiện cùng một lúc để hoàn thành 5 uẩn. Bạn
cũng phải ghi nhớ các thứ theo sau là Vô Thường, Vô Ngã, Khổ. Lúc đó Bạn chứng nghiệm được Sự Thât Chân Đế,
giai đoạn của tiranaparinnâ trong thiền
tuệ vipassana.
2.
THIỀN ĐI (Kinh Hành WALKING MEDITATION)
Trước
hết Bạn chọn một khoảng cách tuỳ ý thuận tiện cho việc hành trì của Bạn. Có thể
là 10 mét hay 15 mét, hay nhẫn đến 5 mét đường phẳng. Đứng ngay không cử động tại
một điểm khởi đầu chừng hai phút. Khi Bạn bắt đầu bước, hãy bước thật chậm, giống
như người không còn một chút năng lực nào cả. Bước thật chậm để Bạn có thể nhận
biết và quán xét những hoạt động của đối tượng Thân và Tâm. Chẳng cần quan tâm
là bước theo chân trái hay chân phải vì như thế Bạn sẽ chỉ nhận biết cái chân
mà không nhận biết sự Sanh Diệt của Tâm và Pháp.
Bạn
chỉ cần chú tâm đến các cử động của Thân và Tâm. Khi chân nhấc lên Bạn phải biết
rõ đang nhấc lên. Khi đặt chân xuống Bạn phải biết đang đặt chân xuống. Khi chân
nhấc lên Bạn cảm thọ chân không, nhiệt độ, trạng thái v.v... Khi đặt chân xuống
Bạn nhận biết Đất (đại địa). Cái chân không này chính là cái chân không của ngoại
giới và nội giới. Nó chính là Bạn. Bạn cũng rỗng tuếch như thế. Cái đại địa này
cũng chính là Ngoại giới và Nội giới. Bốn yếu tố đất nước gió lửa ở ngoài và ở
trong Bạn hợp nhất trong sự quán xét của Bạn. Phiền não không thể chen vào
trong tiến trình hành thiền tuệ.
Bạn nên
có ý thức rõ ràng sự khác biệt giữa Đi
Bình Thường và Đi Thiền Tuệ. Phải
nhận biết và quán xét rõ từng bước và từng chuyển động của Thân. Mắt nhìn thẳng
về phía trước. Đừng nhìn bất cứ cái gì chung quanh. Không bước nhanh quá và
cũng không bước quá chậm. Hãy bước từ từ, chậm rãi, thong thả, nhẹ nhàng.
Hãy
nhận biết và quan sát cái cảm xúc (Thọ) đang xảy ra nơi sự chuyển động của
Thân, chân và các sự thay đổi của Thân về trạng thái, nơi chốn, nhiệt độ, cứng
mềm, cao thấp. Hãy chú ý từ lúc Bạn tác ý để nhấc chân lên cho tới khi nhận biết
đặt chân xuống. Sự tác ý thuần thục rất nhanh mà Bạn khó nhận biết chính lại là
NGHIỆP dẫn Bạn vào trong Sinh Tử Luân Hồi trong vô lượng kiếp. Sự chuyển động của
toàn thân, các cảm xúc sensations, chân trái rồi chân mặt, Bạn cứ thế quán sát.
Liên tục quán xét không để đứt khoảng. Không bỏ qua một bước nào mà không nhận
biết và quán xét. Cho đến khi Bạn đến điểm ngừng cuối. Đứng yên lại ngay chỗ đó
chừng 2 phút, quán sát các diễn biến của Thân (Sắc sensations) và Tâm (Danh emotions).
Sau đó Bạn quay người trở lai từ từ và đứng yên chừng 2 phút. Cứ như thế đi
trong 1 tiếng đồng hồ sau khi Bạn ngồi Thiền. Rồi lại tiếp tục ngồi thiền và
mang theo tất cả sự quán sát tỉnh thức đó vào trong tiến trình ngồi thiền.
Thực
hành như thế Bạn sẽ nhận biết sự chuyển biến của sự nhận diện và quá n sát (changes of awareness and
observation). Sự chuyển động của sự nhận biết này gọi là Danh (Tâm Nama) theo
thuật ngữ Pali. Và sự chuyển động của Thân và chân gọi là Tâm (Sắc Rupa). Nếu bạn
không quen với các thuật ngữ này thì hãy quẳng nó luôn đi vì nó cũng chẳng ích
lợi gì thêm cho việc hành trì của Bạn. Trong tiến trình quán sát như thế bạn
đang nhận biết và quan sát Thân và Tâm tức là Danh Sắc sinh và diệt trong từng
sát na. Cuối cùng thì chỉ còn lại Danh Sắc Nama và Rupa, Sinh và Diệt (Vô Thường).
Đức
Phật dạy khi hành trì Thiền Tuệ Đi (walking vipassana meditation) Bạn sẽ hưởng
được 5 hiệu quả do sự kinh hành (Thiền Đi) như thế.
1. Bạn
có thể đi một quãng đường xa mà không hề bị mỏi mệt. Đức Phật và thánh chúng
ngày xưa đi bộ 40 dặm (khoảng 60 cây số) một ngày để khất thực và hoằng pháp.
Các Ngài đi bằng chân đất, đầu trần.
2. Bạn
có thể hành trì Thiền Tuệ mà không cảm thấy chán nản. Thay đổi từ Thiền Ngồi đến
Thiền Đi, và ngược lại.
3.
Khi Tâm Định thì Thân điều hoà (tứ đại sinh hoạt cân bằng) thì bệnh tật sẽ giảm.
Kinh nghiệm thực tế và Y Khoa cũng chứng minh thế. Ung Thư là do Nội Thân không
điều hoà. Tứ Đại điều hoà, thân tâm an lạc thì cơ thể không tiết các hoá chất độc
tố (thi dụ như adrenaline do xúc động, giận dữ, hoặc bất đồng ý) vào trong cơ
thể để gây tác hại ngầm lâu dài cho chính cơ thể của Bạn.
4. Bạn
có thể ăn ngon và ngủ tốt vì cơ thể có thể tiêu hoá các loại thực phẩm do sinh
hoạt đúng pháp. Bạn sẽ học thêm Thiền Ăn (Eating Meditation) trong những bài
sau. Luôn tỉnh giác trong khi ăn thì không khởi Bất Như Ý (thọ khổ) hoặc Thọ Lạc
trong khi ăn. Dịch Vị tiết ra giúp tiêu hoá dễ dàng.
5. Bạn
có thể tăng thêm khả năng Định do liên tục chú tâm vào các bước đi như thế. Và
hễ Định tăng thì Bạn có thể hành trì Thiền Tuệ bất cứ mọi lúc mọi nơi mọi cảnh.
3.
THIỀN ĐỨNG (STANDING MEDITATION)
Cách
này là khó lắm các bạn nhé
Khi
thực hành Thiền Đứng (standing meditation), Bạn giữ cho hai chân đứng dạng ra với
khoảng cách giữa hai chân vừa phải, không rộng quá, không chật quá. Vừa ngang với
hai vai. Tuỳ theo cơ thể Bạn miễn là thoải mái.
Bạn đặt
hai tay theo năm hướng sau đây: (Ai tìm ra hướng thứ 6 thì tự nhiên nhé)
1.
Hai tay buông thõng theo hai chiều của hai bên thân
2. Giữ
hai tay phía sau lưng, nắm hai tay lại
3. Giữ
hai tay phía trước bụng, xếp hai tay lại
4. Giữ
hai tay ngay trước ngực bằng cách khoanh tay lại
5.
Hai tay chấp chụm lại giơ thẳng qua đầu , thành búp sen trên cao
Các ngón
tay xếp theo ý thích. Giữ cổ thật ngay thẳng. Cổ không được cong hay cúi xuống vì
sẽ gây ra bệnh đau cổ về sau. Giữ cho mắt nhìn về phía trước hơi cúi xuống đất
một chút thôi. Toàn thân giữ cho ngay ngắn và thẳng.
Sau
khi Bạn giữ sự nhận biết Đứng , Đứng, Đứng, khoảng bốn hay năm lần, Bạn hướng
Tâm về nơi chót mũi nơi mà hơi thở ra vào. Trong khi thở, không được suy nghĩ
gì khác. Nếu Bạn chú tâm vào hơi thở ra và vào thì sẽ không có một hơi thở lạc
lõng đi nơi nào khác (wandering thoughts). Từ từ Bạn sẽ quán các cảm thọ
(sensations and feelings) từ đỉnh đầu xuống các ngón chân và rồi ngược lại. Cứ
như thế từ từ quán xét liên tục không bỏ sót bất cứ một chỗ nào trên cơ thể Bạn.
Vào lúc đó Bạn sẽ không còn tham (lobha), sân
(dosa) và si (mana).
Khi Bạn
đứng yên hành trì Thiền Đứng như thế trong 15 phút thì chân bạn sẽ nóng lên và
mỏi. Đừng sợ sẽ bị tĩnh mạch giãn. Cái sợ này sẽ làm bạn phân tâm hành trì. Bạn
quán sát Cảm Thọ và sự tác ý của Bạn. Bạn cảm thấy khó chịu (thọ khổ) từ từ tăng.
Bạn tác ý muốn bỏ thế đứng (khổ) này đi tìm cảm giác khác (lạc). Nhưng Bạn
không được chuyển động chân, ngón chân, nhón chân lên hay đổi thế đứng. Hoàn
toàn giữ yên lặng. Sau một thời gian dài thì chân Bạn cứng đơ và cảm giác này
chuyền xuống từ đầu đến chân. Yên tâm Bạn nhé. Cảm giác này chẳng có ảnh hưởng
chút xíu nào đến cái sức khoẻ to kềnh của thân xác Bạn đâu. Đôi khi thân Bạn bị
dao động. Chuyện này cũng bình thường. Bạn tiếp tục chú tâm vào sự chuyển động
của hơi thở RA và VÀO.
Cuối
cùng của sự quán sát là Bạn sẽ nhận biết là cái Mỏi Đau Tê Cứng chỉ là Cảm Thọ,
giả huyễn không thực. Khi Bạn theo dõi và hoà nhập với hơi thở miên mật liên tục
thì Cảm Thọ Đau Cứng từ từ giảm và cuối cùng sẽ biến mất. Như vậy Bạn đã phát
triển khả năng quán nhận biết và thẩm thấu sự Sinh và Diệt của Cảm Thọ (Vedana
Nirodha) . Đó mới là mục đích chính của sự hành trì Thiền Tuệ và theo đó Tuệ Giác
của Bạn sẽ phát sinh và tăng trưởng. Bạn cố gắng thử hành trì Thiền Đứng trong
nửa tiếng đồng hồ xem sao. Sau đó cố đứng cho được 1 tiếng. Càng lâu càng tốt.
Có một
điều xin nhắc nhở các Bạn là Tuệ tăng trưởng đi song song với sự hành trì Thiền
Tuệ, giống như một đứa bé mới sanh muốn lớn nhanh thì phải được ăn nhiều và hoạt
động nhiều. Nó cần được chăm sóc thường xuyên như trứng mỏng dễ vỡ. Nó cần có sự
chăm sóc của Bạn để sinh tồn và đủ sức lớn. Khi nó đủ sức lớn rồi thì nó sẽ tự đi
kiếm ăn khi đói và nhảy nhót để chóng lớn. Nếu mỗi ngày Bạn bỏ ra 4 tiếng đồng
hồ liên tục hành trì miên mật (2 tiếng
buổi sáng sớm, 2 tiếng buổi tối) thì Tuệ Giác sẽ phát sinh và tăng trưởng từ từ.
Thông thường trong giai đoạn đầu chừng 3 năm (có người quyết tâm miên mật thì
chỉ 6 tháng) là Bạn phải hành trì miên mật thường xuyên cho cái em bé Tuệ Năng của
Bạn đủ sức lớn sinh tồn và tự Biết sống. Nếu không thì nó sẽ bị còi cọt gầy gò
và chết yểu. Khi bước vào cái Chết mà không
Tuệ thì Bạn sẽ sanh vào cảnh giới nào nhỉ? Bạn đã bỏ phí cả cuộc đời vào những
việc vô ích, kiếm tiền, tranh đua, công danh, quyền lực, nhưng khi chết Bạn có
làm chủ được cái Chết hay không? Bạn có làm chủ con đường mà Bạn sẽ phải trải
qua Một Mình sau khi chết không? Con đường ấy Bạn cô đơn đi một mình, không có
chồng vợ, con cái, bạn bè, quyền lực, tài sản. Con đường Không có Tuệ Giác sau
khi chết là con đường tối tăm, khổ nạn, gió mưa bão bùng, vô định mà Bạn sẽ phải
đi một mình.
Lợi
ích của Thiền Đứng: Nếu Bạn có thể chuyên tâm luyện tập tốt phương pháp này thì
cả đời Bạn chẳng bao giờ Bạn bị biến chứng mạch máu não stroke, hay bị bại liệt
paralysis, hoặc bệnh gout.
4.
THIỀN NẰM (LAYING DOWN MEDITATION)
Trước
khi hành trì Thiền Nằm, Bạn cần nhận rõ sự khác biệt giữa Thiền Nằm và Thiền Ngủ.
Thiền Nằm là hành trì Thiền Tuệ trong tư thế Nằm. Thiền Ngủ là hành trì Thiền
Tuệ trong Giấc Ngủ, luân chuyển từ sơ thiền (first jana) đến tứ thiền (fourth
jana) và ngược lại. Loại Thiền này sẽ được giải thích khi Bạn lên lớp cao hơn
nhé. Đừng vội nản. Đa phần các loài sinh vật bất kể là thông minh đến mức nào
nhưng khi Ngủ là như Chết (giả).
Bạn bắt
đầu quán xét từ khi tác ý sắp sửa muốn đi nằm. Bạn nên nhận biết rõ sự tác ý muốn
nằm muốn nằm muốn nằm. Mắt nhìn về cái
giường hay cái võng... và thân bắt đầu chuyển động thật chậm về hướng cái giường
hay cái võng. Lúc này là lúc Bạn áp dụng cách Thiền Đứng và Thiền Đi. Hãy đứng
yên 5 phút tại một chỗ. Sau đó quán sát
sự tác ý. Niệm Nằm Nằm Nằm... Thân bắt đầu xoay nhẹ nhàng từ từ về hướng cái
giường hay cái võng. Khi xoay thân thì nên chú tâm đến sự chuyển động của Thân
và sự Sanh Diệt của cái sự xoay. Thử xem các cảm giác mệt mỏi , muốn nằm còn đó
hay không? Chúng sanh ra như thế nào ?
Chúng có đồng hành Diệt với cái Thân không nhé ? Khi mắt hướng về cái giường
hay cái võng thì sẽ có cảm xúc (emotional feelings). Hãy quán xét cái cảm thọ này
nhé (lạc hay khổ).
Bạn hãy
đi từ từ như đang hành trì Thiền Đi và đi đến cái giường hay cái võng. Tại chỗ
này, Bạn đứng yên 2 phút, mắt nhìn thật kỹ và quán xét xem kỹ có những cái gì
trên giường hay võng có được an toàn hay không ? Nhận biết cảnh vật và tính chất
rõ ràng. Từ từ Bạn ngồi xuống cái giường. Lấy hai tay chống nơi cái giường và sẽ
có cảm giác nơi tay. Và cũng có cảm giác nơi Thân khi sự mong mỏi (khát ái) được nằm Sinh ra. Bạn nên theo
dõi các cảm giác, cảm thọ đó. Theo dõi sự Sanh và Diệt của các chuỗi cảm thọ
đó.
Bạn từ
từ và nhẹ nhàng đặt cái Thân xuống giường. Tuyệt đối phải chậm rãi nhẹ nhàng và
tỉnh giác. Khi đặt Thân xuống giường thì luôn theo dõi cảm thọ của Thân. Cảm
giác khoan khoái (lạc) sinh ra và khi nằm xuống hoàn toàn trên giường thì cảm
giác khoan khoái chấm dứt (Sinh và Diệt). Bạn nằm như bình thường, hai tay cứ để
tự nhiên thoải mái.
Nên
nhớ, trong tiến trình từ lúc tác ý muốn nằm cho đến lúc nằm trên giường hay
võng sẽ tốn khoảng 10 phút hành trì Thiền Nằm (Laying Down Meditation). Bạn
luôn chú tâm nơi các cảm thọ sinh diệt của Thân và luôn chú tâm vào hơi thở nơi
chót mũi. Tâm của Bạn sẽ nhảy chuyền từ chót mũi đến thân, mông, lưng.... Nhưng
đừng lo. Khi Bạn thuần thục thì Bạn chỉ còn biết hơi thở nơi chót mũi và sự
sinh diệt cuả cảm thọ mà thôi.
Bạn
có thể thay đổi thế nằm, từ nằm nghiêng bên trái sang bên phải. Có nhiều truyền
thuyết là đức Phật nằm nghiêng bên tay phải vì trái tim nghiêng bên phải. Dù
chưa có bằng chứng là vì lý do khoa học này mà đức Phật nằm bên phải như thế
hay không ? Hay là Ngài nằm nghiêng phía bên nào từ 2600 năm xưa ? Bạn cũng
không nên quan tâm lắm. Nhiều vị Thánh Tăng vẫn chứng A La Hán dù các Ngài nằm,
ngồi đủ kiểu. Khi hành giả không còn Tham, Sân, Si nữa thì Phật goi vị đó là Bà
La Môn, việc lớn đã xong, phạm hạnh đã tròn, khát ái đã diệt, sanh tử đã tận.
Khi Bạn
hành trì thiền nằm nên luôn luôn quán xét hơi thở ra vào và sự cảm thọ của
Thân. Lúc mới nằm thì Thân sẽ cảm thấy sung
sướng dễ chịu. Nhưng nằm một lúc thì Bạn laị tác ý muốn thay đổi vị thế
của cách nằm. Cái tê, mỏi (thọ khổ) sinh ra. Bạn tiếp tục nhận biết theo dõi
cái cảm thọ này và sự sinh diệt của nó trong khi đó vẫn không rời hơi thở nơi đầu
chót mũi (hay sự phồng xẹp của cái bụng). Khi Bạn chú ý kỹ thì tức là Bạn đang
hành trì thiền định Samadhi (concentration) và sẽ cảm nhận được Vô Thường.
Đức
Phật dạy có 5 yếu tố quan trọng giúp cho sự thành công của Thiền Tuệ.
Thứ
nhất, Bạn phải có niềm tin bất động (saddhabalam power of faith). Bạn phải tin
rằng Bạn (chính Bạn) có khả năng hành trì được. Đừng mong chờ một vị Phật hay vị
Thầy nào ban cho Bạn cái năng lực này, cái trí tuệ này.
Thứ
hai, Bạn phải nỗ lực, không dễ duôi làm biếng (variyabalam power of energy). Nỗ
lực thường xuyên và liên tục giống như cọ hai thanh củi khô vào nhau để tìm lửa.
Thường Xuyên và Liên Tục.
Thứ
ba, Bạn phải tỉnh giác nhận biết rõ và quán xét mỗi khi có hiện tượng Sinh và
Diệt (satibalam power of mindfulness). Tỉnh Giác luôn luôn, không thể có một phút
lơ là. Giống như xem sự tái sinh là một sự thống khổ của cả đời mình. Bạn sẽ ra
đi một mình, cô đơn trong đêm tối bão bùng gió lạnh và không có ai giúp bạn, cũng
không có phương tiện nào chỉ đường cho Bạn.
Thứ tư,
Bạn phải tập trung để có Định (samadhibalam power of concentration). Không để tâm
mình chạy theo cảnh. Khi Định sanh thì biết Định vừa sanh. Khi Định diệt thì biết
Định vừa diệt. Phải nhận biết ngay lập tức kẻo chúng nó chạy mất.
Thứ năm,
Bạn phải có trí tuệ cương quyết xâm nhập
đối tượng để quán xét (pannabalam power of wisdom). Phải nhận biết đối tượng và
đi sâu vào bản chất của đối tượng. Bạn có trí tuệ. Đúng như thế. Chúng Sanh ai
cũng có Phật tánh, nhưng vì Nghiệp Thức che mờ mà con chó ăn phân và con người ăn
cơm. Cơm hay phân cũng chỉ là tứ đại. Khác nhau ở chỗ nào ? Cho nên Bạn phải phát
triển trí tuệ bằng cách nhận biết, nắm bắt, xâm nhập đối tượng giống như chăm sóc
một đứa con sanh non thiếu tháng.
Khi năm
cái năng lực này tăng trưởng thì Chánh Kiến phát sinh. Bạn đã đến gần cánh cửa
của Niết Bàn rồi đó.
5.
THIỀN ĂN, THIỀN UỐNG, THIỀN TẮM, THIỀN TOILET.
Các
hành động hằng ngày đều có sự tác ý một cách thuần thục và nhanh đến nỗi Bạn
không thể nhận ra chúng nếu Bạn lơ đãng một chút. Chính những cái tác ý không
như lý này sẽ duyên cho Nghiệp và dẫn Bạn vào sinh tử trong vô lượng kiếp.
Thiền
Ăn:
Từ
khi bắt đầu tác ý muốn ăn Bạn phải nhận biết sự hiện diện của sự tác ý này. Niệm
Ăn Ăn Ăn. Dùng "Thiền Đi" đến chỗ ngồi. Chú tâm nhìn vào chỗ ngồi.
Thiền Đứng. Khi mắt nhìn vào chỗ ngồi quán xem Tâm có chuyển động không? Tâm có
khởi ý muốn nhìn các thức ăn hay không ? Nếu có thì đó chính là Tâm Tham sinh
khởi. Nhìn xem chỗ ngồi có an toàn có đúng không ? Sau đó từ từ chuyển thân ngồi
xuống nhẹ nhàng, thật chậm rãi cho đúng chỗ ngồi. Quán sát sự chuyển động của
Thân và Tâm cho tới khi ngồi ngay ngắn yên tại chỗ.
Tới lúc
này Bạn hãy nhìn vào bàn ăn và thức ăn. Quán xét cái Tâm khi đối diện các món ăn,
từ màu sắc, mùi vị, kể cả thọ, tưởng sinh ra do thói quen ăn hằng ngày. Khi mắt
bắt đầu chọn thức ăn, quán xét sự tác ý, sự chuyển động của tay, sự lấy đồ ăn,
và đưa vào miệng, sự nhai, biết rõ thức ăn cứng mềm, hãy nhai thức ăn thật kỹ và
ghi nhận cảm thọ khi nhai như thế, khi đưa thức ăn vào lưỡi va chạm hãy quán sát
cái vị cay, đắng, ngọt... tại lưỡi, biết rõ các vị, khi nuốt thì nhận biết rõ đang
nuốt. Từ từ nuốt kẻo mắc kẹt nơi cuống họng thì xấu hổ lắm nhé. Sau khi nuốt hết
hãy đưa thêm miếng ăn nữa vào miệng, Phật dạy như thế, Bạn nên cẩn trọng. Chỉ đưa
thêm một miếng ăn nữa vào miệng khi nào trong miệng không còn một miếng thức ăn
nào. Có nghĩa là nuốt hết miếng này rồi hãy múc thêm miếng kia. Phật dạy đó là
cách chế ngự và kiểm soát Tâm Tham. Cắn nhằm một hột sạn có thể khiến Bạn bực mình.
Đó chính là Tâm Sân; cơ hội tốt cho Bạn quán sát nhé.
Cứ như
thế bạn thong thả dùng hết bữa ăn cho tới khi nhận biết bao tử bạn vừa khoảng
3/4 ngày thường. Không nên quá no vì thức ăn ngon. Thân sẽ bị bệnh và sẽ không
hành trì Thiền tốt sau bữa ăn. Trong khi ăn chỉ chú ý đến thức ăn và cái nhai
nuốt. Quán xét Tâm sanh diệt ra sao nhé. Tâm Tham Sân và Si thường hay xảy ra
liên tục ngày trong bữa ăn.
Thiền
Uống:
Khi Bạn
xong bữa ăn hãy nhìn và quán xét cái chén, cái bát, chỗ ăn trước khi thực hành
thiền uống. Bạn uống nước chậm rãi, thật chậm. Hãy ngậm nước trong miệng khoảng
30 giây để cho nước miếng thấm vào nước uống (saliva) tốt cho sự tiêu hoá.
Trong tiến trình uống nước hãy quán xem cái Tâm ra sao ? Nóng lạnh biết rõ. Mùi
vị biết rõ. Nhận Biết và Quán Sát từ lúc tác ý uống đến lúc uống hoàn tất. Như
thế gọi là Thiền Uống.
Thiền
Tắm:
Hãy
quán sát cẩn thận từ lúc tác ý muốn đi tắm. Quán luôn sự sanh diệt của sự tác ý.
Chuẩn bị áo, quần, khăn tắm, xà bông, và các thứ cần thiết trước khi tắm. Trong
tiến trình chuẩn bị, hãy luôn quán sát Tâm Sinh Diệt theo hơi thở Ra Vào. Hãy
quán từ lúc có tác ý cho đến khi tắm .
Khi tắm
thì có nước rớt trên cơ thể (Xúc) thì luôn luôn sinh ra Thọ. Hãy quán liên tục
cái Thọ này, nó sinh ra lúc nào ? diệt lúc nào ? cường độ ? Thọ Lạc hay thọ Khổ
? Các hành động trong khi tắm đều có Thọ sinh diệt. Hãy bám sát chúng như bám sát
đứa con sanh non thiếu tháng của mình. Nắm bắt, quán sát các cảm thọ phát sinh.
Bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận biết cả tỷ tỷ cái cảm thọ sinh ra chỉ trong một vài
phút tắm. Khi bạn kỳ cọ thân một cách chậm rãi liền có xúc chạm thì có Cảm Thọ
phát sinh. Bạn nên quán ngay Thọ lập tức. Chúng đến đi rất nhanh chóng.
Trong
khi tắm Bạn nên luôn luôn quán 32 thể trược của thân, máu, mủ, phân, nước tiểu,
mồ hôi, nước rãi, đờm..... Khi rời phòng tắm cũng phải dùng mắt (thiền đứng) quán
sát xem tình trạng ngăn nắp của phòng tắm ra sao ? Tiến trình này cần được làm
chậm rãi. Nhiều người già yếu hoặc bệnh bị chết trong phòng tắm vì vội vã, khi
thân nhiệt chưa phù hợp nhiệt độ trước và sau khi tắm sinh ra đột biến. Y học
khuyên nên tắm lúc khí hậu nóng tốt tức là khoảng trưa, từ khoảng 10 giờ sáng đến
4 giờ chiều. Tuỳ Bạn.
Thiền
Toilet:
Thói
thường khi vào toilet, Bạn có cảm giác như cần phải trút bỏ một cái gì bất đắc
dĩ. Như thế Bạn có tâm trạng không ưa thích (thọ khổ). Loại này hơi vi tế và áp
dụng hằng ngày. Thiền Tuệ có thể áp dụng tốt trong tiến trình sinh hoạt toilet.
Bạn cần nhận biết và quán sát Thân và Tâm từ khi bắt đầu tác ý muốn đi toilet. Đi
về hướng có toilet (thiền tuệ). (Thiền đứng) nhìn vào toilet (mắt nhìn Xúc sẽ có
Thọ) quán sát kỹ hiện trạng của toilet. Ngồi xuống toilet cẩn thận và thật chậm
rãi (thiền ngồi). Khi có sự chuyển động của Thân từ ruột non xuống ruột già đều
nhận biết rõ các cảm xúc (cảm thọ lạc hay khổ tuỳ theo...). Ghi nhận cảm thọ và
biết rõ tính chất của Thọ cho đến khi xong toilet và đứng dậy một cách chậm rãi.
Luôn
luôn hành trì như vậy thì Bạn sẽ có cái nhận biết và hiểu rõ về 32 thể trược của
Thân và quá trình sinh diệt của Tâm. Những cái gì ăn vào có cảm giác vui, ngon,
khoan khoái nơi miệng thì nay nó chuyển hoá ra phân, cũng có mùi, sắc, vị... Nhưng
Tâm của Bạn chuyển hoá như thế nào khi ăn và khi đi toilet ? Giống hay khác nhỉ
? Chớ nói chúng khác nhau nhé. Thọ Lạc giống nhau, phải không Bạn? Cái Lạc này cũng sinh diệt nhanh chóng. Hiểu
rõ như thế là Bạn có Định. Sự nhận biết và quán xét về Sinh Diệt của Tâm giúp Bạn
tăng trưởng cái Tuệ Quán về Vô Thường. Biết rõ Vô Thường thì Bạn sẽ thể nhập luôn
Vô Ngã.
No comments:
Post a Comment