Chết thông
thường được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngừng vĩnh viễn mọi hoạt động sống (không thể phục hồi) của một
cơ thể. Tuy nhiên, một định nghĩa cho sự chết còn tùy thuộc vào các quan điểm
tôn giáo, tín ngưỡng cũng như các lĩnh vực liên hệ. Trong y học, Chết là sự
Chấm dứt của moi hoat động sống như hô hấp trao đổi chất sự phân chia các tế
bào đều được chấm dứt vĩnh viễn. Môn khoa học nghiên cứu về cái chết đã trở
thành ngành riêng gọi là "tử vong học"
(tiếng Anh: thanatology; tiếng Hy Lạp: θάνατολογια thnatologia).
Người ta chia chết ra làm hai loại: chết
lâm sàng mà các phương pháp khám lâm sàng cho phép xác định là chết (tim ngừng
đập, ngừng thở, mất tri giác, vv.); Chết thật, khi các mô không còn hoạt động
được nữa và bắt đầu phân hủy. Những
ca tử vong phổ biến ở con người là bệnh tim, tiếp theo là đột
quỵ và tai biến mạch máu não, và xếp thứ 3 là nhiễm trùng đường hô
hấp dưới.
Trong xã hội loài người, bản chất của
cái chết và sự nhận thức của con người về cái chết là các mối quan tâm qua hàng
thiên niên kỷ của thế giới tôn giáo và triết học. Đều này bao gồm niềm tin vào
sự sống lại (liên quan đến tôn giáo Abraham), tái sinh (liên
quan đến tôn giáo Dharm), hoặc ý thức rằng vĩnh viễn không còn tồn tại, được
gọi là lãng quên theo chủ nghĩa vô thần[1].
Đức
Phật định nghĩa về cái chết một cách rõ ràng:
"Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết"[2].
Ngài cũng đưa ra định nghĩa về chết lâm sàng, đó là cái chết của một người còn sống mà như đã chết như cái chết của ngài Sànu.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, ngài Sànu sanh ở thành Sàvatthi trong gia đình một cư sĩ. Khi ngài lên bảy tuổi, mẹ ngài đưa ngài đến ở với các tỳ kheo, hy vọng con mình sẽ được sống hạnh phúc. Rồi Sànu trở thành một vị học hành giỏi, một vị pháp sư, thiền sư với lòng từ bi, được chư Thiên và loài Người ái kính. Sau một thời gian, ngài mất sự sáng suốt, sống sầu khổ và muốn đi lang thang đây đó. Bà mẹ trong tiền kiếp của ngài là một nữ dạ xoa, biết được như vậy nên báo cho người mẹ hiện kiếp của ngài biết. Người mẹ hiện tại, nghe vậy rất lấy làm sầu khổ. Rồi một hôm Sa-di Sànu cầm y và bát đến thăm bà mẹ rất sớm. Thấy mẹ sầu muộn, ngài hỏi và được bà mẹ nói lý do, ngài nói bài kệ:
"Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết"[2].
Ngài cũng đưa ra định nghĩa về chết lâm sàng, đó là cái chết của một người còn sống mà như đã chết như cái chết của ngài Sànu.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, ngài Sànu sanh ở thành Sàvatthi trong gia đình một cư sĩ. Khi ngài lên bảy tuổi, mẹ ngài đưa ngài đến ở với các tỳ kheo, hy vọng con mình sẽ được sống hạnh phúc. Rồi Sànu trở thành một vị học hành giỏi, một vị pháp sư, thiền sư với lòng từ bi, được chư Thiên và loài Người ái kính. Sau một thời gian, ngài mất sự sáng suốt, sống sầu khổ và muốn đi lang thang đây đó. Bà mẹ trong tiền kiếp của ngài là một nữ dạ xoa, biết được như vậy nên báo cho người mẹ hiện kiếp của ngài biết. Người mẹ hiện tại, nghe vậy rất lấy làm sầu khổ. Rồi một hôm Sa-di Sànu cầm y và bát đến thăm bà mẹ rất sớm. Thấy mẹ sầu muộn, ngài hỏi và được bà mẹ nói lý do, ngài nói bài kệ:
Thưa mẹ, người ta khóc,
Khóc vì người đã chết,
Hay có khóc người sống,
Khi sống, không được thấy,
Thưa mẹ, con đang sống,
Và mẹ đang thấy con,
Vậy vì sao, thưa mẹ,
Mẹ lại khóc cho con?
Khóc vì người đã chết,
Hay có khóc người sống,
Khi sống, không được thấy,
Thưa mẹ, con đang sống,
Và mẹ đang thấy con,
Vậy vì sao, thưa mẹ,
Mẹ lại khóc cho con?
Bà mẹ trả lời, bằng
những lời trong kinh: "Ðây là sự chết, này các Tỷ-kheo trong giới luật của
bậc Thánh, tức là sự từ bỏ học giới và hoàn tục",và nói bài kệ như sau:
Người ta khóc cho con,
Là khóc cho con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết,
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Ðống than hồng ấy chăng?
Là khóc cho con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết,
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Ðống than hồng ấy chăng?
Khi
nghe vậy, Sa-di Sànu lấy làm xấu hổ, sầu muộn, và tinh tấn phát triển thiền quán.
Không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ rằng ngài chiến thắng là nhờ những
bài kệ này, nên lấy những bài kệ ấy thành những bài kệ của ngài[3].
Kiệt
Tham Vương là ông vua có nhiều tham dục. Phần trường hàng kể một chuyện tiền
thân: hồi ấy Phật là một người trai trẻ tên là Uất Đa (có thể dịch từ Uttara
hay Utto) đã có khả năng giảng giải một bài kệ cho vị vua đã từng khổ đau vì
nhiều tham dục. Vua hài lòng và ban cho người trẻ tước hiệu là đại đức
(bhadanta).
Rồi Phật dạy kinh này như sau:
1. Tâm còn đeo đuổi ham muốn thì dù có đạt tới cái đối tượng ham muốn rồi, mình vẫn càng ngày càng muốn có thêm nữa, vẫn chưa được hài lòng.
2. Chạy theo dục lạc trong cuộc đời, là kẻ đang bị vướng vào tham đắm và si mê. Còn mang dục ý trong lòng thì cũng như một người đang bị trúng tên độc.
3. Nên tránh tham dục như tránh dẫm lên đầu một con rắn độc. Phải thực tập thiền quán mới buông bỏ được những gì mà người đời thường ham muốn.
4. Vướng vào sự tham cầu châu báu, ruộng đất, hạt giống, trâu bò, tôi tớ và thê thiếp, kẻ ngu si làm tiêu hao cuộc đời và thân thể mình.
5. Đang khỏe mạnh cường tráng, người chạy theo dục lạc trở nên gầy gò hư hao, lại gây thêm nhiều oán hận. Trong u mê, người ấy phải gánh chịu nhiều đau nhức, giống như kẻ đang đi trên biển mà thuyền bị vỡ.
6. Vì vậy ta phải biết nhiếp phục tâm ý, xa lìa tham dục, đừng vướng vào chúng, tinh tiến đi tới, một lòng mong cầu đưa chiếc thuyền của mình đi sang tới bờ bên kia.
1. Tâm còn đeo đuổi ham muốn thì dù có đạt tới cái đối tượng ham muốn rồi, mình vẫn càng ngày càng muốn có thêm nữa, vẫn chưa được hài lòng.
2. Chạy theo dục lạc trong cuộc đời, là kẻ đang bị vướng vào tham đắm và si mê. Còn mang dục ý trong lòng thì cũng như một người đang bị trúng tên độc.
3. Nên tránh tham dục như tránh dẫm lên đầu một con rắn độc. Phải thực tập thiền quán mới buông bỏ được những gì mà người đời thường ham muốn.
4. Vướng vào sự tham cầu châu báu, ruộng đất, hạt giống, trâu bò, tôi tớ và thê thiếp, kẻ ngu si làm tiêu hao cuộc đời và thân thể mình.
5. Đang khỏe mạnh cường tráng, người chạy theo dục lạc trở nên gầy gò hư hao, lại gây thêm nhiều oán hận. Trong u mê, người ấy phải gánh chịu nhiều đau nhức, giống như kẻ đang đi trên biển mà thuyền bị vỡ.
6. Vì vậy ta phải biết nhiếp phục tâm ý, xa lìa tham dục, đừng vướng vào chúng, tinh tiến đi tới, một lòng mong cầu đưa chiếc thuyền của mình đi sang tới bờ bên kia.
5. Cận Tử Nghiệp là gì ?
Tiểu bộ
kinh trong Kinh tạng Nikaya giúp chúng ta có một ý niệm rõ rệt về việc tái
sinh.
Thuở
xưa, ở thành Vương Xá có một người phú ông cực kỳ giàu có, nhưng chỉ có một
người con trai duy nhất. Cậu trai này tính tình dễ mến và hình dung rất tuấn
tú, khôi ngô. Cha mẹ cậu hết sức thương yêu, nuông chiều và không muốn cho cầu
phải khó nhọc về bất cứ điều gì.
Vì thế,
họ suy nghĩ rằng: “Việc học hành, cho dù là học chữ nghĩa hay nghề nghiệp cũng
đều phải bỏ công nhọc nhằn. Muốn học cho đến khi thành tài phải mất rất nhiều
thời gian và công sức. Nhưng chung quy cũng chỉ là để có được một nghề nghiệp
sinh sống mà thôi. Nay vợ chồng ta giàu có, vàng bạc của cải không kể xiết, cho
dù con ta có ngồi không mà ăn suốt đời cũng không thể hết được, vậy không cần
phải cho nó học hành khó nhọc làm gì.”. Và vì thế, mãi cho đến khi cậu con trai
đã đến tuổi trưởng thành, họ vẫn chưa cho cậu ta học hành gì cả, chỉ biết suốt
ngày ăn chơi hưởng thụ mà thôi!
Năm cậu
mười sáu tuổi, họ cưới cho cậu một cô vợ đẹp. Nhưng thật không may, cô này
không phải là người khôn ngoan đức hạnh. Vì thế, đôi vợ chồng trẻ cùng đắm say
trong dục lạc, ngày ngày hưởng thụ đủ các trò vui chơi thỏa thích.
Chẳng bao lâu, cả hai vợ chồng người phú ông lần lượt qua đời. Cậu con trai ấy đã quen với lối sống ăn chơi phung phí, vẫn tiếp tục ném tiền qua cửa sổ với những cuộc vui bất tận cùng những cô vũ nữ, ca nhi, những buổi trà rượu... Vì thế, không đúng như dự đoán của hai vợ chồng phú ông là cậu sẽ “ngồi không mà ăn suốt đời”. Ngược lại, cậu đã làm tiêu tán cả sản nghiệp to lớn của cha mẹ chỉ trong một thời gian rất ngắn!
Chẳng bao lâu, cả hai vợ chồng người phú ông lần lượt qua đời. Cậu con trai ấy đã quen với lối sống ăn chơi phung phí, vẫn tiếp tục ném tiền qua cửa sổ với những cuộc vui bất tận cùng những cô vũ nữ, ca nhi, những buổi trà rượu... Vì thế, không đúng như dự đoán của hai vợ chồng phú ông là cậu sẽ “ngồi không mà ăn suốt đời”. Ngược lại, cậu đã làm tiêu tán cả sản nghiệp to lớn của cha mẹ chỉ trong một thời gian rất ngắn!
Thế là
cậu trở nên nghèo khó. Và vì chẳng có nghề nghiệp gì trong tay, nên cậu chỉ còn
một cách duy nhất để xoay xở cuộc sống là tìm đến những người quen biết cũ để
vay nợ. Nhưng rồi cũng không ai có thể cho cậu vay nợ mãi khi cậu thật sự chẳng
làm ra được gì để có thể sinh sống qua ngày, đừng nói là có thể dành dụm được tiền
trả nợ. Rồi các chủ nợ dần dần không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi nữa, họ chia
nhau những tài sản mà cậu còn giữ được như nhà cửa, ruộng vườn cũng như tất cả
những đồ đạc còn lại trong nhà.
Thế là
cậu con trai cưng của vị phú ông giàu có nhất thành Vương Xá giờ đây trở thành
một kẻ hành khất không nhà, phải sống lang thang lây lất trong thành phố.
Rồi một
hôm, có một tên trộm chuyên nghiệp gặp cậu trên đường phố. Thấy cậu có sức khỏe
và ra vẻ thật thà, chơn chất, tên này nghĩ là có thể lợi dụng được nên bảo cậu:
“Này chú em, cuộc sống của chú thật là khốn khổ, đáng thương xót lắm. Ta không
có gì để giúp chú, nhưng nếu chú chịu đi theo ta, cùng làm công việc với ta,
chú sẽ có thể kiếm được đủ tiền để sống thoải mái.” . Trong bước đường cùng, và
vốn là người không từng trải việc đời, cậu không chút nghi ngờ liền đồng ý đi
theo tên trộm.
Đêm hôm đó, bọn trộm tổ chức một vụ trộm lớn. Chúng đưa cho cậu một cây gậy và bố trí cậu đứng canh bên ngoài trong khi chúng lẻn vào nhà một người giàu có để khuân dọn đồ đạc. Chúng dặn cậu: “Nếu có ai từ bên ngoài muốn vào nhà, hãy chặn lại và đánh chết đi.” Đã ở vào hoàn cảnh không còn thối lui được nữa, cậu đành nhận lấy cây gậy và đứng đó chờ trong khi cả bọn lẻn vào nhà và thực hiện việc lấy trộm.
Thật không may là có người trong nhà thức giấc và phát giác ra bọn trộm. Thế là họ đốt đèn đuốc lên và cùng nhau đuổi đánh. Vốn đã quen thuộc trong nghề, bọn trộm nhanh chóng biến mất theo nhiều ngả, trong khi cậu trai khờ khạo kia vẫn còn cầm cây gậy đứng đó để... chặn đường. Thế là cậu bị đám người nhà kia đánh cho một trận và bắt giải lên nhà vua với lời cáo buộc là cậu đã bị bắt quả tang trong lúc vào trộm nhà họ, có mang theo vũ khí là một cây gậy lớn.
Đêm hôm đó, bọn trộm tổ chức một vụ trộm lớn. Chúng đưa cho cậu một cây gậy và bố trí cậu đứng canh bên ngoài trong khi chúng lẻn vào nhà một người giàu có để khuân dọn đồ đạc. Chúng dặn cậu: “Nếu có ai từ bên ngoài muốn vào nhà, hãy chặn lại và đánh chết đi.” Đã ở vào hoàn cảnh không còn thối lui được nữa, cậu đành nhận lấy cây gậy và đứng đó chờ trong khi cả bọn lẻn vào nhà và thực hiện việc lấy trộm.
Thật không may là có người trong nhà thức giấc và phát giác ra bọn trộm. Thế là họ đốt đèn đuốc lên và cùng nhau đuổi đánh. Vốn đã quen thuộc trong nghề, bọn trộm nhanh chóng biến mất theo nhiều ngả, trong khi cậu trai khờ khạo kia vẫn còn cầm cây gậy đứng đó để... chặn đường. Thế là cậu bị đám người nhà kia đánh cho một trận và bắt giải lên nhà vua với lời cáo buộc là cậu đã bị bắt quả tang trong lúc vào trộm nhà họ, có mang theo vũ khí là một cây gậy lớn.
Sự việc
rõ ràng, vua ra lệnh xử tên trộm này tội chết. Thế là cậu bị đưa đi giam vào
ngục, rồi sau đó đưa đến nơi hành hình. Quân lính dùng roi quất vào người cậu
trên đường đi, trong khi có một tốp người mang trống đi theo, vừa đánh trống để
gợi sự chú ý của mọi người, vừa rao lớn: “Đây là tên trộm có vũ khí bị bắt quả
tang. Đức vua đã xử tội chết để răn đe những tên trộm khác.”
Bấy giờ
có người kỹ nữ đẹp nhất trong thành tên là Sulas, nghe tiếng trống và tiếng đám
đông ồn ào huyên náo ngoài đường phố nên ghé ra bên cửa sổ để xem. Chợt nàng
nhận ra cậu con trai của phú ông giàu có trước đây, bởi lúc trước khi còn giàu
có ăn chơi phung phí, hầu như ngày nào cậu cũng cho nàng rất nhiều tiền và cả
hai đã từng có nhiều cuộc vui đáng nhớ. Người kỹ nữ chợt động lòng nhớ lại tình
xưa, lấy làm thương xót cho chàng trai xấu số, liền nhờ người gửi đến cho tử
tội một bữa ăn ngon và nước uống. Nàng lại mang tiền đến cho bọn lính canh và
cầu xin chúng hãy để cho tử tội được thong thả dùng xong bữa ăn cuối cùng trước
khi bị hành hình.
Cùng
lúc ấy, ngài Mục-kiền-liên, một vị đại đệ tử của đức Phật cũng đang ở trong
thành Vương Xá. Ngài dùng thiên nhãn quán sát thấy tình cảnh nguy khốn của
người tử tù sắp chết, cũng như hiểu thấu được câu chuyện của người này. Động
lòng từ bi thương xót, ngài liền suy nghĩ: “Người này xưa nay tuy chưa tạo các
ác nghiệp, nhưng cũng chưa hề làm được việc thiện nào. Vì thế, anh ta không thể
tái sinh về những cảnh giới tốt đẹp. Nay ta nên tạo điều kiện giúp cho anh ta
khởi nên một niệm lành, làm được một điều lành trước khi chết. Như vậy, anh ta
sẽ có thể tái sinh về thiên giới.”
Nghĩ
vậy rồi, ngài Mục-kiền-liên liền hiện ra phía trước tội nhân ngay vào lúc người
ta mang thức ăn đến cho chàng và nói cho chàng biết đó là của nàng Sulas gửi
tặng. Khi ấy, chàng trai nhìn thấy một vị tu sĩ hình dáng uy nghiêm khả kính
hiện ra từ xa, bỗng thấy trong lòng phát sinh một niềm vui kính nhẹ nhàng khó
tả. Chàng liền suy nghĩ: “Ta đã sắp chết rồi, bữa ăn này liệu có ích gì? Chi
bằng ta nên cúng dường cho vị tu sĩ kia để may ra có được chút phước lành.”
Nghĩ
sao làm vậy, cậu liền nhờ những người lính canh mang thức ăn và nước uống đến
cúng dường cho vị tu sĩ đó. Ngài Mục-kiền-liên nhận biết rằng sự đau khổ của
chàng trai nhờ khởi tâm cúng dường nên đã trở thành hoan hỷ, ngài liền ngồi
xuống thọ nhận bữa ăn và hồi hướng chú nguyện cho chàng rồi ra đi.
Chàng
trai sau đó bị hành hình. Trước khi chết, nhờ tâm thành tín đối với Trưởng lão
Mục-kiền-liên cũng như việc cúng dường bữa ăn cho một bậc A-la-hán, nên chàng
có đủ phước đức để tái sinh lên thiên giới. Tuy nhiên, cũng ngay trước khi
chết, tâm hồn chàng xúc động khi nghĩ đến nàng Sulas và mối chân tình của nàng
đối với chàng khi sắp chết, một niềm luyến ái sinh khởi mạnh mẽ, và do sự trói
buộc này nên chàng không thể tái sinh về thiên giới. Thay vào đó, chàng tái
sinh làm một vị thần cây trong khu rừng bên ngoài thành Vương Xá và vẫn ôm ấp ý
tưởng sẽ được gặp lại nàng Sulas...
Câu
chuyện trên cho ta thấy tác động quan trọng của tâm niệm con người ngay trước
khi chết, bởi vì cái điều này có thể góp phần quyết định vào việc tâm thức sẽ
tái sinh vào cảnh giới nào ngay trong đời sống tiếp theo đó. Thuật ngữ Phật
giáo gọi đây là “cận tử nghiệp”, Cái tâm ấy do đâu mà có ? có phải do hành động
Thân Khẩu Ý hằng ngày hay không các bạn ? Cái Tâm ấy là Tâm Quá Khứ hay Tâm Hiện
Tại ? Nếu cái tâm ấy đuợc huân tập hằng ngày luôn luôn thanh tịnh thì NGHIỆP cũng
chẳng thể còn tác động, hà huống chi là Cận tử nghiệp.?
No comments:
Post a Comment