Sunday, April 29, 2018

PHẢN ỨNG CẢM XÚC LÀ NGUỒN GỐC CỦA BẠO ĐỘNG NỘI TÂM

PHẢN ỨNG CẢM XÚC LÀ NGUỒN GỐC CỦA BẠO ĐỘNG NỘI TÂM
Kinh Pháp cú và Udānavarga bằng tiếng Pāḷi và tiếng Phạn
Dhammapada (धम्मपद): (Yamaka (यमक) (1.4)) & Udānavarga (उदानवर्ग): ((Drohavarga) ( द्रोहवर्ग) (14.10)). Câu số bốn tiếng Pāḷi (पाऌइ) và tiếng Phạn (Saṃskṛta (संस्कृत)).
Dhammapada (धम्मपद): (Yamaka (यमक) (1.4)) Pāḷi (पाऌइ):
Akkocchi maṃ avadhi maṃajini maṃ ahāsi me |
Ye taṃ na upanayhanti veraṃ tesūpasammati||
Pāḷi (पाऌइ) viết theo mẫu devanāgarī (देवनागरी):
अक्कोच्छि मं अवधि मं अजिनि मं अहासि मे |
ये तं न उपनय्हन्ति वेरं तेसूपसम्मति ||
Phần từ vựng bản tiếng Pāḷi (पाऌइ):
Akkocchi (अक्कोच्छि) là quá khứ bất định ở ngôi thứ ba số ít của akkosati (अक्कोसति). Akkosati (अक्कोसति) được viết từ: ā (आ) + √ kruś (√क्रुश्) và nó có những nghĩa được biết như: lạm dụng, đối xử tồi tệ, lăng mạ, sỉ nhục, chửi rủa, mắng nhiếc, sỉ vả, rầy la, trách mắng, quở trách…
Maṃ (मं) là đối cách số ít của ahaṃ (tôi (अहं)) và ahaṃ (अहं) là đại từ danh xưng của ngôi thứ nhất số ít trong tiếng Pāḷi.
Avadhi (अवधि) là quá khứ bất định ở ngôi thứ ba số ít của vadhati (वधति).Vadhati (वधति) có gốc từ động từ căn √ vadh (√वध्). Động từ căn √ vadh (√वध्) có những nghĩa được biết, tùy theo cách chia các thì khác nhau của nó như: đánh, giết, bị đánh đập, bị giết, bị thua….
Ajini (अजिनि) là quá khứ bất định ở ngôi thứ ba số ít của jayati (जयति).
Jayati (जयति) có gốc từ : √ji (√जि) + a (अ) và Jeti (जेति) đồng nghĩa của Jayati (जयति). Jeti (जेति) được viết từ: √ji (√जि) + e (ए).
Động từ căn √ji (√जि) có những nghĩa được biết như: đoạt, xâm chiếm, chiến thắng, chinh phục, chế ngự, vượt hơn, trội hơn, khá hơn; khác thường, đánh thắng, đánh bại, chiếm, đoạt, thu được, nhận được, kiếm được, có được, hơn, trội hơn, dời đi, di chuyển, dọn, bỏ ra, tháo ra…
Ahāsi (अहासि) là quá khứ bất định ở ngôi thứ ba số ít của harati (हरति). Harati (हरति) có gốc từ: √ hṛ (√हृ). Động từ căn √ hṛ (√हृ) có những nghĩa được biết như: cầm, nắm, giữ, nắm giữ, giữ vững, mang, vác, khuân, chở, ẵm, chộp, tóm, túm bắt, ăn cắp, lấy trộm,phá, phá hoại, phá huỷ, tàn phá, tiêu diệt, ngăn, giữ lại…
Me (मे) là sở hữu cách số ít của ahaṃ (tôi (अहं)) và ahaṃ (अहं) là đại từ danh xưng của ngôi thứ nhất số ít trong tiếng Pāḷi. Me (मे): của tôi, thuộc về tôi.
Ye (ये) là chủ cách số nhiều của ya (य) ở dạng giống đực và nó có nghĩa là những vị nào, những người nào…Ya (य) là đại từ tương ứng trong tiếng Pāḷi.
Taṃ (तं) là đối cách số ít của tad (तद्) ở dạng giống đực và nó có nghĩa là vị ấy, ai đó, người nào, việc ấy, điều ấy…
Na (न) bất biến từ, mang nghĩa phủ định = không.
Upa (उप) là tiếp đầu ngữ và nó có những nghĩa được biết như: đi đến gần,xích lại gần, gần bên cạnh,gần chung với nhau, phía dưới, dưới thấp, hướng đến gần, gần như, hầu như, gần, kế đó, trạng thái ở gần…
Nayhati (नय्हति) được ghép từ: nah (नह्) + ya (य)+ ti (ति) và nó có những nghĩa được biết như: buộc, cột, trói, thắt, liên kết, nối, cài đặt, giữ lại, ràng buộc, kết lại với nhau…
Động từ căn √nah (√नह्) có những nghĩa được biết như: buộc, cột, trói, thắt, cài đặt, giữ lại, ràng buộc…
Upanayhanti (उपनय्हन्ति) được ghép từ: Upa (उप) + nayhati (नय्हति) và nó có những nghĩa được biết như: ôm ấp, ấp ủ, phẫn uất, tự trọng, ôm sự thù hằn…
Veraṃ (वेरं) là chủ cách số ít trong bảng biến thể của vera (वेर) ở dạng trung tính và nó có những nghĩa được biết như: căm thù, căm hờn, căm ghét, thù hằn, thù địch…
Tesūpasammati (तेसूपसम्मति) được ghép từ: Tesu (तेसु) + upa (उप) +sammati (सम्मति).
Tesu (तेसं) là vị trí cách cách số nhiều của tad (तद्). Tad (तद्) là đại từ nhân xưng của ngôi thứ ba số ít thuộc trung tính và nghĩa chung của nó được biết là: nó, điều ấy, ai đó…
Sammati (सम्मति) là động từ được chia theo ngôi thứ ba số ít ở thì hiện tại của động từ sam (सम्) và nó có những nghĩa được biết như: khuyên giải, an ủi, làm cho khuây, làm cho nguôi, dỗ dành, dừng, ngừng, thôi, hết, chấm dứt…
Sammati (सम्मति) được ghép từ: sam (सम्) + ya (य)+ ti (ति).
Động từ căn √sam (√सम्) có những nghĩa được biết như: làm cho khuây khỏa, làm cho nguôi, dừng, ngừng, chấm dứt, làm dịu đi, làm lắng xuống (nỗi xúc động, nỗi buồn...), giết chết, chinh phục, khuất phục, đánh bại, dập tắt, làm tiêu tan, làm tắt…
Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
HT. Thích Minh Châu dịch.
Nếu nội thân đã được Phật tánh hóa liên tục, thì sự hiểu biết và cảm nhận được những sự giá trị sâu xa của bốn chữ: Từ, Bi, Hỷ, Xả, để tẩy rửa, tinh luyện và nuôi lớn bản thể trong từng khoảnh khắc nhỏ của cuộc sống, không còn cần tìm cách để so sánh cho mọi hành động lớn hay nhỏ, tốt hay xấu, đã làm, đang làm hay sẽ làm. Không còn ý niệm so sánh thời gian thì vòng sanh tử dựa vào đâu để đưa hành giả lưu chuyển ... trong cái sự rung động của năng lượng vũ trụ (vibration of energy).
Udānavarga (उदानवर्ग) (Drohavargaḥ (द्रोहवर्गः)) 14.9
Lăng mạ, Ngược đãi, Tranh hơn, Chiếm đoạt bất bình, là những bản tánh vốn có sẵn trong con người và Sân hận, Thù hằn, Ganh ghét, Trả thù, cưỡng cầu, chống trái, cũng là những bản tánh luôn có của con người, để tạo ra những sức mạnh đối kháng không ngừng nghỉ và chính cái năng lượng Vô Thức hay Ý Thức này dẫn hành giả liên hoàn sinh diệt hoán thể trong thế giới của sự rung động...
Lăng mạ, Ngược đãi, Tranh hơn, Chiếm đoạt bất bình và Sân hận, Thù hằn, Ganh ghét, Trả thù, chỉ được dừng lại, trừ khi người ta đã nhận biết và đã thấm nhuần từng ý nghĩa, từng giá trị sống của bốn chữ: Từ, Bi, Hỷ, Xả trong từng khoảnh khắc nhỏ của bất kỳ hành động nào mà mình đang làm.
Ở nơi đó không có sự phân biệt Nhân Ngã không có ý niệm chống trái. Vạn Pháp bình đẳng do nơi sự giác ngộ chân lý cao thượng.
Như bóng trăng dưới đáy nước
Như ánh chớp trong đêm trường tăm tối
Của cái Vô Minh không đầu không cuối
Chỉ có cái thoả thích về hiện hữu luân hồi...
Tuệ Tâm 29 04 2018

No comments:

Post a Comment