Áp dụng Phật pháp vào đời sống hằng ngày nhằm thăng hoa tâm linh, phát triển từ bi hỷ xả, lợi người lợi mình, phuc vụ chúng sinh.
"Này các tỳ-kheo, khi các người hội họp lại thường có hai việc phải làm: một là đàm luận về phật pháp, hai là giữ im lặng của bậc thánh" (Buddha)
Application of Buddha's teachings into daily living conditions aiming at perfecting our spirituality, loving kindness, compassion for the benefits of ourselves and others.
Saturday, September 28, 2013
Sunday, June 23, 2013
Ai đang thấy Phật Pháp, thì người đó đang thấy Phật
यो धम्मं पस्सति सो बुद्धं पस्सति | यो बुद्धं पस्सति सो धम्मं पस्सति || Ai đang thấy Phật Pháp, thì người đó đang thấy Phật. Ai đang thấy Phật, thì người đó đang thấy Phật Pháp.
यो धम्मं पस्सति सो बुद्धं पस्सति | यो बुद्धं पस्सति सो धम्मं पस्सति || Ai đang thấy Phật Pháp, thì người đó đang thấy Phật. Ai đang thấy Phật, thì người đó đang thấy Phật Pháp.
Ba giới tính của những danh từ Pāli đó là: nam tính, tiếng Pāḷi: pulliṅga, viết theo mẩu devanāgarī: पुल्लिङ्ग, nữ tính, tiếng Pāḷi: itthiliṅga, viết theo mẩu devanāgarī: इत्थिलिङ्ग và trung tính, tiếng Pāḷi: napuṃsakaliṅga, viết theo mẩu devanāgarī: नपुंसकलिङ्ग. दिवा divā: trạng từ có gốc từ thân दिव diva-,दिवा divā có nghĩa là: vào lúc ban ngày, vào khi trời sáng, vào khoảng sáng, vào quãng thời gian ban ngày, từng ngày, suốt ngày. दिव diva là chủ cách ở dạng trung tính và nó có nghĩa là: ban ngày, ngày, trời. दिवस divasa: ngày, ngày lễ... ( thuộc dạng nam tính và trung tính). च ca là giới từ hay liên từ không thay đổi và có nghĩa là: và, cả hai, hơn nữa, ngoài ra, vả lại, vả chăng, cũng, cũng vậy, cũng thế... रत्तो ratto: trạng từ có gốc từ thân रत्त ratta-,रत्तो ratto có nghĩa là: vào lúc ban đêm, vào khi trời tối, vào khoảng tối, vào quãng thời gian ban đêm, từng đêm, suốt đêm, về đêm, được tô màu, được làm; khô; cạn; ráo, bị; lay động; rung động; rung chuyển; theo cảm xúc mạnh mẽ hay say mê cái gì đó, bị; gắn; dán; trói buộc; cho là, gán cho; gắn liền với cái gì đó... रत्तो ratto có lẽ từ cách chuyễn đổi nguyên âm đôi "au" thành "o" của chữ रत्रौ ratrau (từng đêm, suốt đêm, về đêm...) trong tiếng Phạn. रत्त ratta là tính từ, thuộc dạng trung tính và nó có nghĩa là: thuộc về màu đỏ, máu, thời gian ban đêm... रत्त ratta có nghĩa giống như रत्ति ratti trong các bản Kinh Phật viết bằng tiếng Pāḷi. Thí dụ qua câu này trong nghi thức thọ trì giới Bát Quan Trai như sau: अज्ज उपोसथो इमञ्च रत्तिं इमञ्च दिवसं उपोसथिको भविस्सामि | Ajja uposatho imañca rattiṃ imañca divasaṃ uposathiko (người nam đọc bởi vì chữ uposathiko thuộc về dạng nam tính) bhavissāmi. अज्ज उपोसथो इमञ्च रत्तिं इमञ्च दिवसं उपोसथिका भविस्सामि | Ajja uposatho imañca rattiṃ imañca divasaṃ uposathikā (người nữ đọc bởi vì chữ uposathikā thuộc về dạng nữ tính) bhavissāmi. अज्ज ajja hay अज्जा ajjā là trạng từ và cũng là từ không thay đổi và có nghĩa là hôm nay ngày nay... उपोसथो uposatho có gốc từ उपोसथ uposatha có nghĩa là: ngày trai giới. अट्ठङ्गुपोसथी aṭṭhaṅguposathī có nghĩa là: ngày thọ trì bát quan trai giới hay ngày ăn chay giữ tám giới. उपोसथ aṭṭhaṅgasīla có nghĩa là: tám giới. उपोसथ aṭṭhaṅgasīla / Tám giới: पाणातिपाता वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Pāṇātipātā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh. अदिन्नादाना वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Adinnādānā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp. अब्रह्मचरिया वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Abrahmacariyā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự hành dâm. मुसावादा वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Musāvādā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối. सुरामेरय मज्जपमादट्ठाना वेरमन् सिक्खापदं समादियामि. Surāmeraya majjapamādaṭṭhānā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dể duôi uống rượu và các chất say. विकालभोजना वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Vikālabhojanā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sai giờ. नच्चगीत वादित विसूकदस्सना मालागन्ध विलेपन धारण मण्डन विभूसनट्ठाना वेरमणी सिक्खापदं समादियामि. Naccagīta vādita visūkadassanā mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm thoa vật thơm, dồi phấn, đeo tràng hoa. उच्चासयन महासयना वेरमणी सिक्खापदं समादियामि. Uccāsayana mahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp. इमञ्च imañca ghép từ इमं imaṃ + च ca , viết theo nối vần. इमं imaṃ là tiếng chỉ thị đại danh từ ở dạng số ít của इम ima và nó có nghĩa là: này, cái này. च ca là liên từ hay giới từ và nó có nghĩa là: và... रत्तिं rattiṃ là đối cách số ít ở dạng nữ tính của रत्ति ratti (tính từ) và nó có nghĩa là đêm, ban đêm... दिवसं divasaṃ là đối cách số ít ở dạng trung tính của दिव diva và nó có nghĩa là ngày, ban ngày... उपोसथिको uposathiko là thiện nam. उपोसथिका uposathikā là thiện nữ. भविस्सामि bhavissāmi có nghĩa: tôi sẽ, tôi sẽ là... Ý Việt : Hôm nay là ngày trì giới Bát Quan Trai, con sẽ thọ trì giới Bát Quan Trai, trọn ngày nay và đêm nay. निच्चं niccaṃ là trạng từ và nó có nghĩa là liên tục, luôn luôn, vĩnh viễn. बुद्धगता buddhagatā được ghép từ hai chữ: बुद्धbuddha + गता gatā. गता gatā là quá khứ phân từ của động từ cănगमु gamu. गता gatā là tính từ ở dạng nữ tính và có nghĩa là đã đi qua... बुद्धगता buddhagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là hướng đến Đức Phật một con người đã thành đạt Niết Bàn. सति sati là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là: chánh niệm, tỉnh táo, tỉnh thức... धम्मगता dhammagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa làhướng đến Pháp của Đức Phật. सङ्घगता saṅghagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa làhướng đến Tăng đoàn của Đức Phật. कायगता kāyagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là hướng về thân hay quán về thân. अहिंसाय ahiṃsāya được ghép từ: अ a + हिंसाय hiṃsāya. अ a là tiếp đầu ngữ. हिंसाय hiṃsāya là: Sử dụng cách, Chỉ định cách, Xuất xứ cách, Sở hữu cách, Vị trí cách, Xưng hô cách, số ít ở dạng nữ tính của हिसा hiṃsā. हिसा hiṃsā có gốc nghĩa từ: हिंसापेति hiṃsāpeti, हिंसापेसि hiṃsāpesi, हिंसति hiṃsati. हिसा hiṃsā là tính từ và nó có nghĩa là: quấy rầy, trêu chọc, làm hại, làm tổn hại, làm hỏng, xúc phạm, vết thương, chỗ bị đau, làm tổn thương, gây tác hại, gây thiệt hại, làm hư... अहिंसाय ahiṃsāya có nghĩa là: không làm hại, không làm tổn hại, không làm hỏng, không xúc phạm, không làm tổn thương, không gây tác hại, không gây thiệt hại, không làm hư... भावना bhāvanā có gốc từ: भवेति bhaveti, भव bhava, भू bhū. भावना bhāvanā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là: vun bồi, phát triển, nuôi dưỡng, tăng trưởng, tu dưỡng tâm của con người. भावनाय bhāvanāya là chỉ định cách số ít ở dạng nữ tính và nghĩa của nó giống như भावना bhāvanā.
Từ भावना bhāvanā thường xuất hiện cùng với một từ khác tạo thành một cụm từ hợp chất có ý nghĩa như sau :
- चित्त भावना Citta bhāvanā: phát triển của Tâm thức.
- मेत्ता भावना Mettā bhāvanā: phát triển của Tâm từ.
- काय भावना Kāya bhāvanā: phát triển của Cơ thể.
- पञ्ञा भावना Paññā bhāvanā: phát triển của Trí Tuệ.
- समधि भावना Samadhi bhāvanā: phát triển của Tâm thanh tịnh.
- विपस्सन भावना Vipassana bhāvanā: phát triển của cái Nhìn thuần lý.
Kinh sách Tây phương lại dịch chữ Bhāvanā này là Meditation, có nghĩa là "Suy tư", "Trầm tư" tuy diễn đạt chưa đầy đủ toàn bộ ý nghĩa nguyên thủy của Bhāvanā, nhưng vì sự tiện lợi và phổ cập của quần chúng, chữ Meditation đã trở nên quen thuộc.
Kính bút TS Huệ Dân
यो धम्मं पस्सति सो बुद्धं पस्सति | यो बुद्धं पस्सति सो धम्मं पस्सति || Ai đang thấy Phật Pháp, thì người đó đang thấy Phật. Ai đang thấy Phật, thì người đó đang thấy Phật Pháp.
Ba giới tính của những danh từ Pāli đó là: nam tính, tiếng Pāḷi: pulliṅga, viết theo mẩu devanāgarī: पुल्लिङ्ग, nữ tính, tiếng Pāḷi: itthiliṅga, viết theo mẩu devanāgarī: इत्थिलिङ्ग và trung tính, tiếng Pāḷi: napuṃsakaliṅga, viết theo mẩu devanāgarī: नपुंसकलिङ्ग. दिवा divā: trạng từ có gốc từ thân दिव diva-,दिवा divā có nghĩa là: vào lúc ban ngày, vào khi trời sáng, vào khoảng sáng, vào quãng thời gian ban ngày, từng ngày, suốt ngày. दिव diva là chủ cách ở dạng trung tính và nó có nghĩa là: ban ngày, ngày, trời. दिवस divasa: ngày, ngày lễ... ( thuộc dạng nam tính và trung tính). च ca là giới từ hay liên từ không thay đổi và có nghĩa là: và, cả hai, hơn nữa, ngoài ra, vả lại, vả chăng, cũng, cũng vậy, cũng thế... रत्तो ratto: trạng từ có gốc từ thân रत्त ratta-,रत्तो ratto có nghĩa là: vào lúc ban đêm, vào khi trời tối, vào khoảng tối, vào quãng thời gian ban đêm, từng đêm, suốt đêm, về đêm, được tô màu, được làm; khô; cạn; ráo, bị; lay động; rung động; rung chuyển; theo cảm xúc mạnh mẽ hay say mê cái gì đó, bị; gắn; dán; trói buộc; cho là, gán cho; gắn liền với cái gì đó... रत्तो ratto có lẽ từ cách chuyễn đổi nguyên âm đôi "au" thành "o" của chữ रत्रौ ratrau (từng đêm, suốt đêm, về đêm...) trong tiếng Phạn. रत्त ratta là tính từ, thuộc dạng trung tính và nó có nghĩa là: thuộc về màu đỏ, máu, thời gian ban đêm... रत्त ratta có nghĩa giống như रत्ति ratti trong các bản Kinh Phật viết bằng tiếng Pāḷi. Thí dụ qua câu này trong nghi thức thọ trì giới Bát Quan Trai như sau: अज्ज उपोसथो इमञ्च रत्तिं इमञ्च दिवसं उपोसथिको भविस्सामि | Ajja uposatho imañca rattiṃ imañca divasaṃ uposathiko (người nam đọc bởi vì chữ uposathiko thuộc về dạng nam tính) bhavissāmi. अज्ज उपोसथो इमञ्च रत्तिं इमञ्च दिवसं उपोसथिका भविस्सामि | Ajja uposatho imañca rattiṃ imañca divasaṃ uposathikā (người nữ đọc bởi vì chữ uposathikā thuộc về dạng nữ tính) bhavissāmi. अज्ज ajja hay अज्जा ajjā là trạng từ và cũng là từ không thay đổi và có nghĩa là hôm nay ngày nay... उपोसथो uposatho có gốc từ उपोसथ uposatha có nghĩa là: ngày trai giới. अट्ठङ्गुपोसथी aṭṭhaṅguposathī có nghĩa là: ngày thọ trì bát quan trai giới hay ngày ăn chay giữ tám giới. उपोसथ aṭṭhaṅgasīla có nghĩa là: tám giới. उपोसथ aṭṭhaṅgasīla / Tám giới: पाणातिपाता वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Pāṇātipātā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh. अदिन्नादाना वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Adinnādānā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp. अब्रह्मचरिया वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Abrahmacariyā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự hành dâm. मुसावादा वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Musāvādā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối. सुरामेरय मज्जपमादट्ठाना वेरमन् सिक्खापदं समादियामि. Surāmeraya majjapamādaṭṭhānā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dể duôi uống rượu và các chất say. विकालभोजना वेरमनी सिक्खापदं समादियामि. Vikālabhojanā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sai giờ. नच्चगीत वादित विसूकदस्सना मालागन्ध विलेपन धारण मण्डन विभूसनट्ठाना वेरमणी सिक्खापदं समादियामि. Naccagīta vādita visūkadassanā mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm thoa vật thơm, dồi phấn, đeo tràng hoa. उच्चासयन महासयना वेरमणी सिक्खापदं समादियामि. Uccāsayana mahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp. इमञ्च imañca ghép từ इमं imaṃ + च ca , viết theo nối vần. इमं imaṃ là tiếng chỉ thị đại danh từ ở dạng số ít của इम ima và nó có nghĩa là: này, cái này. च ca là liên từ hay giới từ và nó có nghĩa là: và... रत्तिं rattiṃ là đối cách số ít ở dạng nữ tính của रत्ति ratti (tính từ) và nó có nghĩa là đêm, ban đêm... दिवसं divasaṃ là đối cách số ít ở dạng trung tính của दिव diva và nó có nghĩa là ngày, ban ngày... उपोसथिको uposathiko là thiện nam. उपोसथिका uposathikā là thiện nữ. भविस्सामि bhavissāmi có nghĩa: tôi sẽ, tôi sẽ là... Ý Việt : Hôm nay là ngày trì giới Bát Quan Trai, con sẽ thọ trì giới Bát Quan Trai, trọn ngày nay và đêm nay. निच्चं niccaṃ là trạng từ và nó có nghĩa là liên tục, luôn luôn, vĩnh viễn. बुद्धगता buddhagatā được ghép từ hai chữ: बुद्धbuddha + गता gatā. गता gatā là quá khứ phân từ của động từ cănगमु gamu. गता gatā là tính từ ở dạng nữ tính và có nghĩa là đã đi qua... बुद्धगता buddhagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là hướng đến Đức Phật một con người đã thành đạt Niết Bàn. सति sati là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là: chánh niệm, tỉnh táo, tỉnh thức... धम्मगता dhammagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa làhướng đến Pháp của Đức Phật. सङ्घगता saṅghagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa làhướng đến Tăng đoàn của Đức Phật. कायगता kāyagatā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là hướng về thân hay quán về thân. अहिंसाय ahiṃsāya được ghép từ: अ a + हिंसाय hiṃsāya. अ a là tiếp đầu ngữ. हिंसाय hiṃsāya là: Sử dụng cách, Chỉ định cách, Xuất xứ cách, Sở hữu cách, Vị trí cách, Xưng hô cách, số ít ở dạng nữ tính của हिसा hiṃsā. हिसा hiṃsā có gốc nghĩa từ: हिंसापेति hiṃsāpeti, हिंसापेसि hiṃsāpesi, हिंसति hiṃsati. हिसा hiṃsā là tính từ và nó có nghĩa là: quấy rầy, trêu chọc, làm hại, làm tổn hại, làm hỏng, xúc phạm, vết thương, chỗ bị đau, làm tổn thương, gây tác hại, gây thiệt hại, làm hư... अहिंसाय ahiṃsāya có nghĩa là: không làm hại, không làm tổn hại, không làm hỏng, không xúc phạm, không làm tổn thương, không gây tác hại, không gây thiệt hại, không làm hư... भावना bhāvanā có gốc từ: भवेति bhaveti, भव bhava, भू bhū. भावना bhāvanā là chủ cách số ít ở dạng nữ tính và nó có nghĩa là: vun bồi, phát triển, nuôi dưỡng, tăng trưởng, tu dưỡng tâm của con người. भावनाय bhāvanāya là chỉ định cách số ít ở dạng nữ tính và nghĩa của nó giống như भावना bhāvanā.
Từ भावना bhāvanā thường xuất hiện cùng với một từ khác tạo thành một cụm từ hợp chất có ý nghĩa như sau :
- चित्त भावना Citta bhāvanā: phát triển của Tâm thức.
- मेत्ता भावना Mettā bhāvanā: phát triển của Tâm từ.
- काय भावना Kāya bhāvanā: phát triển của Cơ thể.
- पञ्ञा भावना Paññā bhāvanā: phát triển của Trí Tuệ.
- समधि भावना Samadhi bhāvanā: phát triển của Tâm thanh tịnh.
- विपस्सन भावना Vipassana bhāvanā: phát triển của cái Nhìn thuần lý.
Kinh sách Tây phương lại dịch chữ Bhāvanā này là Meditation, có nghĩa là "Suy tư", "Trầm tư" tuy diễn đạt chưa đầy đủ toàn bộ ý nghĩa nguyên thủy của Bhāvanā, nhưng vì sự tiện lợi và phổ cập của quần chúng, chữ Meditation đã trở nên quen thuộc.
Kính bút TS Huệ Dân
Wednesday, May 1, 2013
Tuesday, April 30, 2013
Monday, April 29, 2013
Sunday, January 27, 2013
Sunday, January 13, 2013
Tuesday, January 8, 2013
Đôi mắt cô bé mù
Đôi mắt
Có một cô gái không may bị mù, quen biết một chàng trai, 2 người cùng yêu nhau, dến một ngày cô gái nói với chàng trai: "Khi nào em nhìn thấy được thế giới, em sẽ lấy anh". Rồi đến một ngày kia cô gái được phẩu thuật mắt và cô đã nhìn thấy được ánh sáng. Chàng trai hỏi: "Bây giờ em đã thấy được cả thế giới, em sẽ lấy anh chứ?"
Cô gái bị ngẩn ngơ choáng váng khi thấy chàng trai cũng bị mù như mình. Cô ta từ chối anh. Chàng trai ra đi trong nước mắt và nhắn lại rằng: "Hãy giữ gìn cẩn thận đôi mắt của mình em nhé, vì đó là món quà cuối cùng anh có thể tặng em".
Có một cô gái không may bị mù, quen biết một chàng trai, 2 người cùng yêu nhau, dến một ngày cô gái nói với chàng trai: "Khi nào em nhìn thấy được thế giới, em sẽ lấy anh". Rồi đến một ngày kia cô gái được phẩu thuật mắt và cô đã nhìn thấy được ánh sáng. Chàng trai hỏi: "Bây giờ em đã thấy được cả thế giới, em sẽ lấy anh chứ?"
Cô gái bị ngẩn ngơ choáng váng khi thấy chàng trai cũng bị mù như mình. Cô ta từ chối anh. Chàng trai ra đi trong nước mắt và nhắn lại rằng: "Hãy giữ gìn cẩn thận đôi mắt của mình em nhé, vì đó là món quà cuối cùng anh có thể tặng em".
Bà cụ bán rau
Ăn rau không chú ơi ?
Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
- Ăn hộ tôi mớ rau...!
Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa mới buổi sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh. "Mình thương người thì ai thương mình" cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.
- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơ i! Tiếng bà cụ yếu ớt.
- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!
Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.
Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:
- Rau này bà bán bao nhiêu?
- Hai nghìn một mớ. Bà cụ mừng rỡ.
Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.
- Sao chú mua nhiều thế?
- Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!
Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ...
- Nghỉ thế đủ rồi đấy!
Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ. Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ. Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện. Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:
- Bà bán rau chết rồi.
- Bà cụ hay đi qua đây hả chị? Chị bán nước khẽ hỏi.
- Tội nghiệp bà cụ ! một giọng người đàn bà khác.
- Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh.
Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi. Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo kia...
Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
- Ăn hộ tôi mớ rau...!
Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa mới buổi sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh. "Mình thương người thì ai thương mình" cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.
- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơ i! Tiếng bà cụ yếu ớt.
- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!
Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.
Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:
- Rau này bà bán bao nhiêu?
- Hai nghìn một mớ. Bà cụ mừng rỡ.
Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.
- Sao chú mua nhiều thế?
- Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!
Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ...
- Nghỉ thế đủ rồi đấy!
Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ. Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ. Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện. Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:
- Bà bán rau chết rồi.
- Bà cụ hay đi qua đây hả chị? Chị bán nước khẽ hỏi.
- Tội nghiệp bà cụ ! một giọng người đàn bà khác.
- Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh.
Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi. Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo kia...
Subscribe to:
Posts (Atom)